Thứ Tư, 18 tháng 7, 2012

Hang Thần


Ngọn núi đá đứng sừng sững một mình giữa đồng lúa phì nhiêu miền Đồng Bằng. Ở trên đó cây cối đua nhau mọc um tùm, cỏ hoa tươi tốt như in dấu lên nền trời xanh. Dưới chân núi, có một dòng sông nhỏ ôm ấp uốn lượn mà tạo nên sơn thủy hữu tình. Vì là núi đá nên có nhiều hang hốc, cái hang lớn nhất nằm ngay dưới chân núi, nước từ lòng sông có thể chảy được vào tận bên trong. Nghe nói hang này ăn sâu quanh co vào lòng núi, những hạng người mê tín thì tin rằng đó là đường dẫn xuống thủy cung của Long Vương. Vì sự huyền bí này mà xưa nay dân ở đây chưa có ai dám vào bên trong hang cả. Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng có một câu chuyện minh chứng cho điều đó. Trước đây, trong vùng có một chàng thanh niên chuyên đánh cá mưu sinh ở khúc sông này. Cũng như dân làng, thường ngày anh chỉ thả lưới ven sông, mà chẳng bao giờ dám mon men vào đến cửa hang ấy. Nhưng một lần vì mãi mê bơi thuyền dò theo luồng cá, anh đã vào sâu trong hang từ lúc nào mà không hay biết. Đến hôm sau người nhà cũng không thấy anh trở về. Có người nhìn thấy thì nói rằng, từ khi anh vào trong hang thì không thấy quay trở ra. Rồi ba ngày sau người ta thấy anh bơi thuyền từ trong hang đá ra, nhưng lúc này đã trở thành một ông già râu tóc bạc phơ. Lúc về đến nhà, ông lão liền ngã lăn ra bất tỉnh. Từ đó người đàn ông trở nên điên dại, miệng luôn lảm nhảm nói về một vị rắn thần nào đó đã bắt mình. Cái hang đá vốn đã bí hiểm, nay vì thế mà càng trở nên linh thiêng hơn bao giờ hết. Từ đó dân trong vùng đều thành kính gọi cái hang đá bí hiểm kia là Hang Thần.

Ở ngay cửa hang, có tấm đá phẳng phiu như tấm bia nổi lên, trên đó người ta nhìn thấy rõ một hình chữ thập rất lớn. Tấm bia đá đứng uy nghiêm giữa hang, chia đôi dòng nước lững lờ. Các cụ già nói rằng, con sông này thông ra cửa biển cách đây vài chục cây số. Kể cũng lạ, vì khi chảy đến đây thì dòng nước ngưng lại mà nhẹ nhàng ôm ấp quanh chân núi. Và cái chỗ cuối sông đầu núi này đã được một cụ Mãng Xà tu luyện thành tinh chọn để làm nơi ở của mình. Nhiều người quả quyết, rằng chính mắt mình từng trông thấy ngài bơi từ trong hang ra, một lúc sau lại chậm rãi bơi vào. Ngài to lớn tựa như một con trăn hoa đốm, và trên đầu có một hình chữ thập nổi lên. Mỗi lần ngài bơi ra là đám cỏ bên cửa hang lại rạp xuống phẳng lỳ, nom như một tấm thảm xanh vậy. Những hôm thời tiết đẹp thì ngài thường nằm phơi nắng trước cửa hang, dường như là để ngắm nhìn chốn giang san yêu dấu của mình.

o0o

Thời chiến tranh, người ta chọn ngọn núi này làm nơi đặt pháo cao xạ. Có một tiểu đội lính dân quân trú đóng ở đây cả đêm lẫn ngày. Vì núi có địa hình cao, nên từ đây pháo cao xạ có thể dễ dàng ngắm bắn máy bay, để canh chừng cái kho quân dụng cách đó chỉ mấy trăm mét.

Đám dân quân đặt bản doanh chỗ lưng chừng núi, ở đấy có một bãi đất trống bằng phẳng giống như cái sân kho của hợp tác xã. Ban đêm trên đó thường hay đốt lửa bùng bùng, cách xa đến mấy cây số người ta vẫn còn trông thấy được. Mỗi khi có tiếng máy bay gầm rú thì mấy khẩu pháo cao xạ lại thi nhau khạc lửa liên hồi, âm thanh chấn động cả ngọn núi thiêng. Rồi một hôm, không hiểu vì lý do gì mà mấy tay dân quân đặt mìn cho nổ tung tấm bia trước cửa hang. Người ta nghe một tiếng nổ long trời, đá và nước bắn lên tung toé khắp mặt sông. Cửa hang bổng nhiên trống toang hoác và ngoác ra như miệng của một con quái vật khổng lồ. Từ đó không ai thấy ngài xuất hiện nữa, chắc là ngài đã lui vào để ẩn ở trong lòng núi. Cũng không ai thấy ngài bơi ra cửa hang tắm nắng như mọi khi. Mấy cụ già trong làng gần đó thì thầm với nhau rằng: “Ngài đang nổi giận đấy. Chắc chắn là ngài sẽ giáng hoạ cho những kẻ đã cả gan phá hoại hang thần của mình”.
  
Bên kia ngọn núi, cách về phía đông chừng vài trăm mét có một làng chài sầm uất. Những người dân ở đây lấy nghề đánh cá ở khúc sông này làm kế sinh nhai. Từ phía tây đi men theo một con đường mòn quanh co dưới chân núi là đến được làng chài. Từ khi đội dân quân đóng trên núi thì người ta không ai đi qua đường ấy nữa. Dân làng chài trước đây vẫn thường hay thắp nhang khấn vái ở cửa hang, mong cho ngài phù hộ để đánh bắt được nhiều tôm cá. Thời gian này họ cũng chỉ dám đánh bắt cá một lúc vào buổi sáng rồi nhanh chóng bơi thuyền về nhà, vì dân quân có lệnh nghiêm cấm người dân lai vãng xung quanh ngọn núi này.

o0o

Thường thì máy bay hay ném bom vào buổi tối, mục tiêu là cái kho quân dụng kia. Bị pháo cao xạ trên núi bắn loạn xạ, máy bay phải vội bay vọt lên cao để tránh đạn, vì thế mà bom thường rơi chệch mục tiêu.

Khoảng đầu giờ Hợi, dân làng chài đột nhiên nghe có tiếng máy bay gầm rú, rồi tiếng bom nổ ầm ầm. Tiếng pháo cao xạ đáp trả được một lúc rồi cũng im bặt. Dân làng kéo ra sân đứng xem, rồi có tiếng người gọi nhau í ới:

- Cháy, cháy rồi! Bom ném trúng trận địa pháo rồi!

Người ta cùng nhau nhìn về phía ngọn núi, ở đó ngọn lửa đỏ rực đang cháy bùng dữ dội, những đốm sáng bắn lên tứ tung như một màn pháo hoa trình diễn. Bom đã ném trúng trận địa pháo của đám dân quân trên núi, thay vì cái kho quân dụng ở gần đó. Mấy cụ già trong làng lại thì thầm với nhau với vẻ mặt quan trọng:

- Ngài trừng phạt những kẻ đã phá hoại cửa hang của ngài đấy! Vì vậy mà ngài cố ý lái cho quả bom rơi trúng trận địa pháo.

Sáng hôm sau, mọi người cùng kéo nhau lên núi để xem sự tình. Lúc này trước mắt họ là một cảnh tượng rùng rợn đầy kinh hãi. Cả tiểu đội dân quân 9 người thì chỉ còn có hai người sống sót, một nam và một nữ. Người nữ vì quá hoảng sợ mà trở nên điên loạn, cứ liên mồm gào thét dữ dội. Còn người đàn ông thì bị sức ép của bom bắn ra xa rồi ngất đi, đến gần sáng mới tỉnh lại. Những cái xác cháy đen nằm co quắp với đủ tư thế được người ta nhặt nhạnh rồi quấn vào bao nilon để mang đi chôn cất. Cả trận địa pháo trở nên tan hoang, không còn một chút gì của sự sống. Theo lời người đàn ông sống sót kể lại, tối hôm ấy họ nghe tiếng máy bay gầm rú và bắn pháo đáp trả. Bất ngờ một quả cầu lửa bao trùm lấy cả trận địa pháo dân quân. Từ trong quả cầu lửa đó, anh nhìn thấy một con rắn khổng lồ đang khạc lửa vào họ. Vì quá sợ hãi, nên anh ta đã ngất đi mà không còn biết gì nữa.

Mọi người đang chăm chú lắng nghe câu chuyện kỳ lạ, bổng lại nghe một tiếng hét lớn:

- A a a!…

Ai nấy kinh hãi khi nhìn thấy người nữ dân quân bị điên kia bất ngờ nhảy từ trên đỉnh núi xuống hang Thần. Xác cô ta nổi bập bềnh một lúc trên dòng nước, rồi trôi vào bên trong lòng hang thăm thẳm. Những người chứng kiến cảnh tượng ấy, đều nhìn nhau mà sởn gai ốc và cảm thấy lành lạnh ở sống lưng. Đến lúc này thì người ta mới nhớ đến lời mà các cụ già thường hay nói ngày trước, ấy là sự nổi giận của Rắn Thần.

Được mấy hôm thì người dân quân sống sót kia cũng bỏ nhà mà đi đâu biệt tích. Từ đó, người dân làng chài mới lại dám ra đánh bắt cá ở khúc sông này như trước đây. Mỗi lần đi qua hang thần, họ đều không quên cung kính thắp hương để khấn vái ngài. Dường như ngài cũng thương tình những người dân nghèo làng chài, cho nên luôn phù hộ cho họ được cá tôm đầy lưới. Con đường dưới chân núi người ta cũng đã bắt đầu đi lại. Những đêm trăng sáng, dân làng hay nhìn thấy bóng một cô gái đứng dựa vào gốc cây bên đường mà khóc thút thít. Người ta nói rằng, đó là oan hồn cô dân quân bị điên hồi trước, vì còn lưu luyến với cõi trần mà thường hiện lên để quấy nhiễu người qua đường.

 Một hôm trời nắng đẹp, người ta lại thấy ngài từ trong hang đá bơi ra. Giờ đây hình như ngài đã già hơn trước, dáng bơi đã bắt đầu uể oải và chậm chạp. Lần này bơi quấn quýt bên ngài còn có thêm hai con rắn nhỏ nữa. Sau khi lượn lờ trước cửa hang mấy vòng để ngắm nhìn giang san lần cuối, ngài cùng hai con quay đầu bơi ngược ra phía thượng nguồn. Kể từ đó, ngài bỏ hang thần để mà trở về với đại dương mênh mông.