Ngọn núi đá đứng sừng sững một mình giữa đồng lúa phì nhiêu miền Đồng Bằng. Ở trên
đó cây cối đua
nhau mọc um tùm, cỏ hoa tươi tốt như
in dấu lên nền trời xanh.
Dưới chân núi, có một dòng sông nhỏ ôm ấp uốn lượn mà tạo nên sơn thủy hữu
tình. Vì là núi đá nên có nhiều hang hốc, cái hang lớn nhất nằm ngay dưới chân
núi, nước từ lòng sông có thể chảy được vào tận bên trong. Nghe nói hang này ăn
sâu quanh co vào lòng núi, những hạng người mê tín thì tin rằng đó là đường dẫn
xuống thủy cung của Long Vương. Vì sự huyền bí này mà xưa nay dân ở đây chưa có
ai dám vào bên trong hang cả. Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng có một câu chuyện
minh chứng cho điều đó. Trước đây, trong vùng có một chàng thanh niên chuyên
đánh cá mưu sinh ở khúc sông này. Cũng như dân làng, thường ngày anh chỉ thả
lưới ven sông, mà chẳng bao giờ dám mon men vào đến cửa hang ấy. Nhưng một lần
vì mãi mê bơi thuyền dò theo luồng cá, anh đã vào sâu trong hang từ lúc nào mà không
hay biết. Đến hôm sau người nhà cũng không thấy anh trở về. Có người nhìn thấy thì
nói rằng, từ khi anh vào trong hang thì không thấy quay trở ra. Rồi ba ngày sau
người ta thấy anh bơi thuyền từ trong hang đá ra, nhưng lúc này đã trở thành
một ông già râu tóc bạc phơ. Lúc về đến nhà, ông lão liền ngã lăn ra bất tỉnh.
Từ đó người đàn ông trở nên điên dại, miệng luôn lảm nhảm nói về một vị rắn thần
nào đó đã bắt mình. Cái hang đá vốn đã bí hiểm, nay vì thế mà
càng trở nên linh thiêng hơn bao giờ hết. Từ đó dân trong vùng đều thành kính gọi
cái hang đá bí hiểm kia là Hang Thần.
Ở ngay cửa hang, có tấm đá phẳng phiu
như tấm bia nổi lên, trên đó người ta nhìn thấy rõ một hình chữ thập rất lớn.
Tấm bia đá đứng uy nghiêm giữa hang, chia đôi dòng nước lững lờ. Các cụ già nói
rằng, con sông này thông ra cửa biển cách đây vài chục cây số. Kể cũng lạ, vì khi
chảy đến đây thì dòng nước ngưng lại mà nhẹ nhàng ôm ấp quanh chân núi. Và cái chỗ
cuối sông đầu núi này đã được một cụ Mãng Xà tu luyện thành tinh chọn để làm
nơi ở của mình. Nhiều người quả quyết, rằng chính mắt mình từng trông thấy ngài
bơi từ trong hang ra, một lúc sau lại chậm rãi bơi vào. Ngài to lớn tựa như một
con trăn hoa đốm, và trên đầu có một hình chữ thập nổi lên. Mỗi lần ngài bơi ra
là đám cỏ bên cửa hang lại rạp xuống phẳng lỳ, nom như một tấm thảm xanh vậy. Những
hôm thời tiết đẹp thì ngài thường nằm phơi nắng trước cửa hang, dường như là để
ngắm nhìn chốn giang san yêu dấu của mình.
o0o
Thời chiến tranh, người ta chọn ngọn núi
này làm nơi đặt pháo cao xạ. Có một tiểu đội lính dân quân trú đóng ở đây cả
đêm lẫn ngày. Vì núi có địa hình cao, nên từ đây pháo cao xạ có thể dễ dàng
ngắm bắn máy bay, để canh chừng cái kho quân dụng cách đó chỉ mấy trăm mét.
Đám dân quân đặt bản doanh chỗ lưng chừng núi, ở đấy có một bãi đất trống bằng phẳng giống như cái sân kho của hợp tác xã. Ban đêm trên đó thường hay đốt lửa bùng bùng, cách xa đến mấy cây số người ta vẫn còn trông thấy được. Mỗi khi có tiếng máy bay gầm rú thì mấy khẩu pháo cao xạ lại thi nhau khạc lửa liên hồi, âm thanh chấn động cả ngọn núi thiêng. Rồi một hôm, không hiểu vì lý do gì mà mấy tay dân quân đặt mìn cho nổ tung tấm bia trước cửa hang. Người ta nghe một tiếng nổ long trời, đá và nước bắn lên tung toé khắp mặt sông. Cửa hang bổng nhiên trống toang hoác và ngoác ra như miệng của một con quái vật khổng lồ. Từ đó không ai thấy ngài xuất hiện nữa, chắc là ngài đã lui vào để ẩn ở trong lòng núi. Cũng không ai thấy ngài bơi ra cửa hang tắm nắng như mọi khi. Mấy cụ già trong làng gần đó thì thầm với nhau rằng: “Ngài đang nổi giận đấy. Chắc chắn là ngài sẽ giáng hoạ cho những kẻ đã cả gan phá hoại hang thần của mình”.
Bên kia ngọn núi, cách về phía đông chừng
vài trăm mét có một làng chài sầm uất. Những người dân ở đây lấy nghề đánh cá ở
khúc sông này làm kế sinh nhai. Từ phía tây đi men theo một con đường mòn quanh
co dưới chân núi là đến được làng chài. Từ khi đội dân quân đóng trên núi thì
người ta không ai đi qua đường ấy nữa. Dân làng chài trước đây vẫn thường hay
thắp nhang khấn vái ở cửa hang, mong cho ngài phù hộ để đánh bắt được nhiều tôm
cá. Thời gian này họ cũng chỉ dám đánh bắt cá một lúc vào buổi sáng rồi nhanh
chóng bơi thuyền về nhà, vì dân quân có lệnh nghiêm cấm người dân lai vãng xung
quanh ngọn núi này.
o0o
Thường thì máy bay hay ném bom vào buổi
tối, mục tiêu là cái kho quân dụng kia. Bị pháo cao xạ trên núi bắn loạn xạ,
máy bay phải vội bay vọt lên cao để tránh đạn, vì thế mà bom thường rơi chệch
mục tiêu.
Khoảng đầu giờ Hợi, dân làng chài đột
nhiên nghe có tiếng máy bay gầm rú, rồi tiếng bom nổ ầm ầm. Tiếng pháo cao xạ
đáp trả được một lúc rồi cũng im bặt. Dân làng kéo ra sân đứng xem, rồi có
tiếng người gọi nhau í ới:
- Cháy, cháy rồi! Bom ném trúng trận địa
pháo rồi!
Người
ta cùng nhau nhìn về phía ngọn núi, ở đó ngọn
lửa đỏ rực đang cháy bùng
dữ dội, những đốm sáng bắn lên tứ tung như một màn pháo hoa trình diễn. Bom đã ném trúng trận địa pháo của đám
dân quân trên núi, thay vì cái kho quân dụng ở gần đó. Mấy cụ già trong làng
lại thì thầm với nhau với vẻ mặt quan trọng:
- Ngài trừng phạt những kẻ đã phá hoại cửa
hang của ngài đấy! Vì vậy mà ngài cố ý lái cho quả bom rơi trúng trận địa pháo.
Sáng hôm sau, mọi người cùng kéo nhau lên
núi để xem sự tình. Lúc này trước mắt họ là một cảnh tượng rùng rợn đầy kinh
hãi. Cả tiểu đội dân quân 9 người thì chỉ còn có hai người sống sót, một nam và
một nữ. Người nữ vì quá hoảng sợ mà trở nên điên loạn, cứ liên mồm gào thét dữ
dội. Còn người đàn ông thì bị sức ép của bom bắn ra xa rồi ngất đi, đến gần sáng
mới tỉnh lại. Những cái xác cháy đen nằm co quắp với đủ tư thế được người ta
nhặt nhạnh rồi quấn vào bao nilon để mang đi chôn cất. Cả trận địa pháo trở nên
tan hoang, không còn một chút gì của sự sống. Theo lời người đàn ông sống sót
kể lại, tối hôm ấy họ nghe tiếng máy bay gầm rú và bắn pháo đáp trả. Bất ngờ
một quả cầu lửa bao trùm lấy cả trận địa pháo dân quân. Từ trong quả cầu lửa đó,
anh nhìn thấy một con rắn khổng lồ đang khạc lửa vào họ. Vì quá sợ hãi, nên anh
ta đã ngất đi mà không còn biết gì nữa.
Mọi
người đang chăm chú lắng
nghe câu chuyện kỳ lạ,
bổng lại nghe một tiếng
hét lớn:
- A a a!…
Ai
nấy kinh hãi khi nhìn thấy người nữ dân quân bị điên kia
bất ngờ nhảy từ trên đỉnh núi xuống hang Thần. Xác cô ta nổi bập bềnh một lúc
trên dòng nước, rồi trôi vào bên trong lòng hang thăm thẳm. Những người chứng
kiến cảnh tượng ấy, đều nhìn nhau mà sởn gai ốc và cảm thấy lành lạnh ở sống
lưng. Đến lúc này thì người ta mới nhớ đến lời mà các cụ già thường hay nói
ngày trước, ấy là sự nổi giận của Rắn Thần.
Được mấy hôm thì người dân quân sống sót
kia cũng bỏ nhà mà đi đâu biệt tích. Từ đó, người dân làng chài mới lại dám ra
đánh bắt cá ở khúc sông này như trước đây. Mỗi lần đi qua hang thần, họ đều
không quên cung kính thắp hương để khấn vái ngài. Dường như ngài cũng thương tình
những người dân nghèo làng chài, cho nên luôn phù hộ cho họ được cá tôm đầy
lưới. Con đường dưới chân núi người ta cũng đã bắt đầu đi lại. Những đêm trăng sáng,
dân làng hay nhìn thấy bóng một cô gái đứng dựa vào gốc cây bên đường mà khóc thút
thít. Người ta nói rằng, đó là oan hồn cô dân quân bị điên hồi trước, vì còn
lưu luyến với cõi trần mà thường hiện lên để quấy nhiễu người qua đường.