Trong không gian
chật hẹp của ngôi hàng chè chén lúc này - dăm ba người
khách đang ngồi lố nhố trên những chiếc ghế nhựa con con được đặt sát cạnh
nhau. Người hút thuốc, kẻ uống trà, rồi họ vừa ngắm nhìn phố xá đầu ngày vừa chuyện
vãn với nhau cho vơi bớt thời gian. Phương thì chẳng để ý đến mấy người khách kia
đang nói những gì, vì giọng của họ hòa lẫn với tiếng ồn ào trên phố tạo thành một
mớ âm thanh hỗn độn không đầu không cuối, khiến chẳng thể nào mà nhập tâm cho đặng.
Anh chậm rãi hút thuốc, ánh mắt lơ đãng nhìn chén nước chè được đặt trên bàn với
một tâm trạng thú vị. Cái chén màu da lươn, có quai cầm và thấp bèn bẹt áng chừng
chỉ độ vài đốt ngón tay. Thời nay chẳng thiếu gì những loại chén sứ men trắng
và có hoa văn thanh lịch cả. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao người ta lại cứ thích chọn
lựa kiểu chén nom vừa dân dã vừa có vẻ quê mùa cục mịch như thế. Nhưng chính
anh cũng cảm thấy ưa thích cái loại chén ấy tự lúc nào mà chẳng hề hay biết, giống
như một món đồ thời trang theo phong cách hoài cổ đã được khách hàng ưa dùng và
chấp nhận theo thói quen sinh hoạt thường ngày vậy.
Đang lúc ấy, chợt
có một giọng lanh lảnh như xé vải của phụ nữ vang lên gần đó, khiến cho dòng
suy nghĩ của anh bị cắt ngang:
- Này! Cái ông nhà
quê kia! Đứng xê ra một chút xem nào! Để cho người ta còn bán hàng nữa chứ…
Qua tấm lưng to
bè, với chiếc áo bảo hộ lao động có hai vạch sơn phản quang màu cam của anh công
nhân môi trường ngồi cạnh, Phương nhìn thấy chị hàng phở lúc này đang giận dữ la
mắng một người đàn ông cao niên. Người này cỡ ngoài sáu mươi tuổi gì đó, ăn mặc
lôi thôi, trên vai khoác một chiếc túi dết giống như hành khất, đầu thì đội mũ
lá rộng vành đã rách te tua vài chỗ. Cũng chẳng khó để người ta biết được ông là
một người nhà quê mới lên thành phố. Vì ngoài cách ăn mặc ra, thì nét mặt ngơ ngác, nhìn cái gì cũng thấy lạ, đi đứng
lại thiếu vẻ tự nhiên của ông cũng đã đủ nói lên tất cả.
- Cái chị này lạ
nhỉ! Vỉa hè là để dành cho người đi bộ kia mà. Tôi đi trên vỉa hè thì có ảnh hưởng
gì đến nhà chị kia chứ? – Người đàn ông quay sang phía cô hàng phở phân bua.
Chị chàng kia
nghe vậy thì lại càng điên tiết, mặt đỏ dừ như gấc, phần do tức giận, phần có lẽ
do sức nóng của cái lò than đặt cạnh bên thì phải. Chị ta quắc cặp mắt to tròn
như hai ánh đèn pha, rồi tức thì gõ mạnh chiếc môi vẫn cầm sẵn trên tay vào thành
nồi nước dùng đang sôi sùng sục nghe đánh keng một cái, miệng sa sả:
- Nhưng tôi bán
hàng ở đây. Mọi người lại đang ăn nữa. Ông biết chửa? Người gì mà lôi thôi lếch
thếch. Nhìn đến phát gớm! – Rồi cô bỉu môi, đưa cánh tay béo núc ních mà xua
người đàn ông như đuổi tà - Thôi! Xéo nhanh đi để cho người ta còn nhờ.
Thì ra nguyên
nhân dẫn đến cuộc cãi vã cũng chẳng có gì là phức tạp cả. Số là ông lão kia đang
đi thì dừng lại để quan sát vì không quen đường. Trong khi cô hàng phở đanh đá thì lại cho
rằng ông đã làm vướng chân khách hàng của mình, cho nên mới nổi đóa mà làm ầm ĩ lên như thế.
Trong lúc tranh
cãi, chẳng hiểu người đàn ông luống cuống thế nào mà vô ý chạm chân vào lưng một
cô sinh viên đang ngồi ăn phở ở đó. Thế là cô ta lập tức quay ngoắt lại, khuôn
mặt xinh đẹp nhìn ông đầy vẻ tức tối. Rồi cô nhăn nhó vòng tay ra sau lưng mà phủi
áo sột soạt, cùng lúc cặp môi thoa son đỏ chót cũng văng ra những lời chua loét:
- Đi đứng vô ý
vô tứ vừa vừa thôi chứ, làm bẩn hết quần áo của người ta rồi đây này. Rõ là cái
lão nhà quê đáng ghét!
- Xin lỗi cô! Tôi
sơ ý – Người đàn ông vội vàng đứng né ra
một bên, chắp tay bối rối.
Cô sinh viên chẳng
thèm để ý đến lời xin lỗi đầy thành ý kia, thản nhiên quay lại ăn tiếp, cứ như
thể là ông lão không hề có mặt trên cõi đời này vậy. Mấy cô bạn của cô
ta ngồi đó cũng a dua theo, mỗi người một câu nhiếc móc, khiến cho người đàn
ông cứ lúng ta lúng túng như gà mắc tóc. Một lúc rồi ông cũng dứt ra khỏi được
cái mớ bùi nhùi đó. Chân ông bước đi một cách chậm chạp, nom thê thảm đến tội
nghiệp. Đến chỗ quán nước chè chén thì người đó dừng lại, đưa tay lên lau những
giọt mồ hôi còn lấm tấm hai bên thái dương. Có vẻ như ông đang rất mệt nhọc vì vừa
mới trãi qua một cuộc hành trình vất vả lắm thì phải. Dường như cũng muốn nghỉ
ngơi một lúc cho thư giãn gân cốt, bởi vậy mà sau thoáng phân vân, người đàn ông bèn quyết định ngồi xuống ghế.
- Ông uống nước chè
nhé? – Bà lão chủ quán nhìn người khách mới đến và hỏi bằng một giọng ôn tồn.
- Vâng! Bà cho
chén nước – Người kia thủng thẳng đáp. Rồi bỏ mũ lá ra, sau đó luồn tay tháo chiếc túi
đặt xuống đùi, tỉ mẩn lần xem những gì trong đó không rõ.
Lúc này thì
Phương mới có dịp để quan sát kĩ người đàn ông nọ. Ông ta có một khuôn mặt hơi
dài, nước da trắng mai mái, với những đường
gân xanh nổi rõ trên vầng trán cao rộng. Trên mình ông mặc một chiếc áo bằng vải
nâu rộng thùng thình, phía dưới có hai túi nhỏ được may theo kiểu cách thời xưa. Chân thì đi đôi giày
vải - kiểu giày vẫn thường dành cho những người cao tuổi - nom thanh thoát và nhẹ nhàng.
Sau lúc hồi tâm và lấy lại sức lực, người đó ngước lên hỏi bà bán hàng:
- Phiền cụ cho
biết phố Yên Trang ở đâu?
- Thế ông đi
thăm bà con hay hỏi nhà ai ở đấy? – Bà cụ tò mò, đôi mắt đầy những vết chân
chim nhìn ông khách như dò hỏi.
- Tôi muốn tìm đến
chùa Trúc Sơn.
- À! Nếu vậy thì
đúng rồi – Bà cụ ngồi thẳng người lên, thở phào. Rồi đưa tay chỉ vào con ngõ đối
diện – Ông đi theo lối này…
Người đàn ông
nhìn theo hướng tay chỉ của bà lão, ngập ngừng:
- Ngõ này?....
- Con ngõ ấy đấy!
Ông cứ đi hết ngõ này, rồi rẽ phải chừng dăm chục mét nữa thì sẽ đến được chùa
Trúc Sơn.
- Cảm ơn bà! –
Người đó nói, rồi nâng chén nước chè lên nhấp một ngụm. Dáng vẻ ra chiều thư
thái lắm.
Người khách lại
im lặng, và bắt đầu quan sát mọi thứ xung quanh một cách chậm rãi. Ánh mắt hiền
từ, ấm áp như những tia nắng mùa thu của ông bất chợt dừng lại nơi khuôn mặt Phương.
- Anh vừa gặp
chuyện buồn về tình duyên phải không?
- Ông đang nói đến
cháu? – Phương ngơ ngác trỏ tay vào người mình.
- Phải! Tôi đang
nói với cậu đấy – Người đàn ông mỉm cười thân thiện.
- Sao ông lại biết
được? – Phương ngạc nhiên. Vì quả đúng như người kia đã nói, anh vừa mới chia
tay với người yêu được mấy bữa nay. Bởi vậy mà ngay lúc này, trong lòng anh đã cảm thấy bội phục
người khách già ăn mặc có vẻ xoàng xỉnh kia lắm.
- Nhìn sắc diện
của anh thì tôi biết – Ông lão nói, nét mặt vẫn tỏ ra bình thản.
Có vẻ như vẫn còn muốn biết thêm điều gì đó, ông lão nhìn Phương và nói:
- Hãy đưa tay
tôi xem nào!
Tuy chưa hiểu sự
thể thế nào, nhưng Phương vẫn đưa tay ra theo yêu cầu của ông ta.
- Không! Tay trái
kia.
Phương lại chìa bàn tay trái ra.
- Ông là thầy
bói hả? – Phương hỏi. Giọng nửa đùa nửa thật.
- Tôi cũng có biết
xem qua – Người kia đáp, rồi nắm lấy bàn tay anh. Bàn tay ông ta với những ngón
dài, ở chỗ các gút ngón tay nổi u lên, nom nhăn nheo và khổ hạnh.
- Ông không cần biết
ngày tháng năm sinh sao? – Phương mỉm cười
- Đó là tử vi.
- Ông cũng biết
xem tử vi chứ? – Phương lại vui miệng hỏi.
- Biết! – Ông
lão đáp gọn lỏn.
Phương nghe thế
thì không dám hỏi gì thêm nữa, vì sợ lại làm mất đi sự tập trung của ông trong lúc
này.
Ông lão xem chỉ tay
và còn nói thêm mấy chuyện về gia cảnh, tình duyên nữa. Khiến cho Phương cứ đi hết
từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, vì cảm thấy lời nào của ông cũng hay, cũng đúng cả. Cứ như thể
ông ta đọc được suy nghĩ của người khác vậy, thậm chí là còn biết hơn cả bản
thân anh nữa là đằng khác. Trái với cái vẻ bề ngoài hèn mọn, giờ đây ông lão nói
năng một cách mạch lạc và khúc chiết, giống như là một triết gia có kiến thức uyên
thâm lắm vậy. Mấy người khách trong quán bấy giờ cũng ngồi chăm chú theo dõi cuộc
trò chuyện với một vẻ tò mò hết sức. Trên khuôn mặt của họ hiện rõ một thái độ tôn
trọng và nể phục ông lão tự đáy lòng. Cái người mà chỉ mới mấy phút trước đây thôi,
còn phải chịu sự ghẻ lạnh và khinh khi của xã hội ngoài kia.
Kết thúc cuộc
nói chuyện, Phương muốn biếu ông lão một ít tiền gọi là, giống như người ta vẫn
thường trả công cho những người xem bói dạo trên phố vậy. Nhưng ông đã vội xua
tay:
- Ấy! Không cần
phải như vậy!
Nói rồi ông lão thanh
toán tiền nước, đội mũ, khoác túi dết và chậm rãi đứng lên. Trước sự ngỡ ngàng
của hết thảy mọi người trong quán lúc này, ông vung vẩy hai cánh tay mà bước
đi một cách thoải mái, miệng thì lẩm nhẩm như đang đọc khẩu quyết: “Xả đắc! Xả
đắc!”. Sự thể khiến cho cặp mắt ốc nhồi của anh công nhân ngồi cạnh Phương cứ thế
trố hết ra, còn miệng thì há hốc đến cả nửa phút sau vẫn chưa tài nào ngậm lại được.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời anh ta được chứng kiến một con người lạ
lùng đến như vậy. Phương thì vẫn dõi ánh mắt nhìn theo cái dáng đi đặc biệt của ông lão,
cho đến khi khuất hẳn sau đám người nhộn nhịp trên phố mới thôi. Thực là một con
người có hành tung kỳ bí, y hệt như đạo sĩ tu tiên vừa mới hạ sơn xuống phố
vậy.
Bà lão chủ quán tay
vẫn tráng rửa cốc chén lách cách, miệng lẩm bẩm:
- Đến là lạ cho cái
ông nhà này! Toàn nói những chuyện chẳng ai hiểu gì cả.
o0o
Tối hôm đó khi về
đến phòng trọ, Phương vẫn còn có cảm giác kỳ lạ về ông lão mà mình đã
gặp hồi sáng. Trong lúc ngồi uống trà, anh mới đem câu chuyện mà kể lại cho anh
bạn sinh viên cùng phòng nghe. Vốn có nghiên cứu chút ít về tử vi, tướng pháp,
cho nên khi nghe bạn kể, Hùng tỏ ra hứng thú lắm. Ngày thường Hùng vẫn được các
sinh viên khác gọi vui là “Giáo Sư”, để ghi nhận cái vốn kiến thức khổng lồ mà
cậu đã dày công tích lũy được. Qua giọng kể đều đều của Phương, Hùng ngồi chống
cằm mà lắng nghe một cách chăm chú lắm. Mỗi khi bắt gặp những chỗ tâm đắc quá,
cậu lại đưa tay lên mà gãi gãi mớ tóc bù xù trên đầu nghe sồn sột, nom hiếu động
hệt như là một đứa trẻ vậy.
- Vậy là cậu đã
may mắn gặp được cao nhân rồi đó! – Hùng cao giọng tuyên bố, khi Phương vừa kết
thúc câu chuyện. Như thể chính cậu ta mới là người có mặt ở đó vậy.
Thấy bạn mình khẳng
định một cách chắc nịch như thế, Phương không khỏi ngạc nhiên:
- Tớ nghĩ cao nhân phải là những người học vấn cao,
có địa vị và thành đạt trong xã hội chứ?
- Nếu vậy thì cậu
lại càng lầm to rồi – Giọng Hùng kéo dài ra như dè bỉu - Ngược lại, họ sống ẩn
mình, thậm chí còn làm những công việc thấp kém nữa là đằng khác.
Như để chứng
minh cho lời nói của mình, Hùng bèn đứng ngay dậy, rồi đi lại chỗ giá sách đặt ở
góc phòng. Sau một hồi lục lọi, cậu cầm đến một cuốn sách đã sờn mép và đặt mạnh
lên bàn:
- Cậu nhìn đây!
Cuốn sách này viết về những danh nhân thời xưa. Họ đều là những con người có
nhân phẩm cao quý, trí tuệ cao siêu, nhưng lại ưa thích lối sống thanh cao mà
xa rời thế tục. Tuy vậy, họ đã có những đóng góp rất to lớn vào kho tàng tri thức
nhân loại…
Phương tò mò
nhìn vào bìa cuốn sách. Trên đó thấy in hình một người đàn ông với mái tóc bạc
phơ, đang ngồi thiền định trên mỏm núi có hoa lá bao quanh.
Trong khi bạn
mình vẫn chưa thể nào rời mắt khỏi cuốn sách, Hùng lại tiếp lời:
- Đọc sách xưa,
thường thấy cao nhân là những người có trí tuệ hoặc một sở trường nào đó vượt hẳn
người thường. Trái ngược với những công phu mà bản thân có được, họ lại thích
chọn lối sống giản dị, thậm chí là ăn mày khổ hạnh trong xã hội. Cái người mà cậu
gặp hôm nay, có thể là một người như thế đấy!
Phương chột dạ, bèn
vận hết trí nhớ trong đầu ra để mà liên tưởng đến cái dáng vẻ lôi thôi lếch thếch
của ông cụ hồi sáng. Rồi dường như càng suy nghĩ, anh lại càng cảm thấy Hùng
nói đúng lắm.
Trong khi chờ đợi
ý kiến phản hồi từ Phương, Hùng rút một điếu thuốc lá ngậm trên môi, rồi đưa mắt
nhìn quanh tìm bật lửa. Phương vội thò tay lấy cái máy lửa trong túi quần của
mình ra, châm lửa cho cậu ta.
- Cảm ơn! – Hùng
lịch sự. Mùi khói thuốc lá thơm thơm bay khắp căn phòng.
Giáo sư rít một
hơi thuốc dài, rồi tiếp tục mạch tư duy vẫn còn dang dở:
- Cao nhân là
người nhìn rõ quy luật vận động của sự vật, chứ không phải khuôn sáo hẹp hòi
như những hạng phàm nhân. Đối với cao nhân thì: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Cho nên họ đưa ra lời khuyên không phải vì
vụ lợi, càng không vì nịnh nọt bao giờ. Phải là những người cảm thấy quý mến thì
họ mới tặng lời. Được nghe cao nhân bàn luận, có thể nói là còn hơn mười năm đọc
sách vậy.
Những lời kia
khiến cho Phương như vén được đám mây mù đang che khuất. Tuy nhiên vẫn còn có một
điều mà anh đang cảm thấy băn khoăn trong lòng, bèn hỏi:
- Vậy cậu có hiểu
được ý nghĩa của câu cuối cùng mà người kia đã nói hay không?
Giáo sư nhíu mày
mà suy nghĩ rất lung, lúc sau mới cất giọng chậm rãi:
- “Xả đắc” vốn
là một từ cổ, xuất phát từ thời nhà Minh – Giáo sư vỗ tay lên trán – Nếu tôi nhớ
không nhầm thì… ở trong cuốn “Liễu phàm tứ huấn” của Viên Liễu Phạm thì phải?...
- Nhưng nội dung
của nó là gì? – Phương sốt ruột.
- Ý nghĩa của nó
là: Cho đi là nhận lại. Xả chính là
Đắc, mất mà được, được lại mất. Nó cũng giống như: “Sắc tức thị không, không tức
thị sắc” vậy.
Nghe đến đây, Phương chợt hiểu, bèn hớn hở vỗ tay mà rằng:
- Đúng là những tư tưởng cao siêu! Cao nhân. Cao nhân vậy!