Cửa hàng mậu dịch quốc doanh là một dãy nhà hai tầng đồ
sộ, nằm án ngữ ngay giữa ngã tư của thị tứ đô hội. Đằng xa từ mọi hướng, người
ta đã có thể nhìn thấy tòa nhà màu trắng xám trầm mặc nhô ra, nom y hệt như là
một con tàu khổng lồ đang bị mắc cạn vậy. Tầng một phía dưới rộng hơn một chút,
còn tầng hai thì lại thụt vào bên trong và được lợp ngói âm dương kín kẽ. Chỗ
nhô ra phía dưới cũng chính là một dãy hàng hiên, được lợp mái cẩn thận và chạy
dọc suốt tòa nhà. Kiểu thiết kế đó rất thuận tiện, vì người ta có thể thoải mái
đi lại hay ngồi đợi ngoài hiên mà không còn phải sợ bị mưa, nắng làm phiền.
Ngôi nhà mang dáng dấp kiến trúc kiểu Pháp, vì hồi Pháp thuộc, đây vốn là trụ
sở của huyện đường.
Bên trong
cửa hàng được bày bán các mặt hàng nhu yếu phẩm để phục vụ đời sống con người.
Từ kim chỉ, gương lược, cho đến những chiếc lốp và xích líp xe đạp mà ta vẫn đi
hằng ngày. Những mặt hàng mà chỉ trong này mới có chứ không thấy bày bán ở
ngoài, vì nhà nước giữ thế độc quyền kinh doanh. Không có cạnh tranh thương
mại, vì thế mà mọi thứ ở đây đều đắt đỏ, lại thiếu đi tính đa dạng. Lúc nào
cũng thấy có mấy cô mậu dịch viên ngồi sau quầy hàng với khuôn mặt khó đăm đăm,
họa hoằn lắm mới thấy họ vui vẻ với khách một chút gọi là.
Khách ra
vào cửa hàng vẫn thường bắt gặp một bà lão ngồi lom khom quạt bánh đa để bán.
Bà ngồi ngay chỗ cái góc ngoài cùng của hàng hiên, ngày nào cũng vậy, sáng cũng
như chiều, miệt mài và cần mẫn. Cạnh đó là một cái rổ đựng bánh đa, bên trên có
chiếc mẹt úp ngửa để bày sẵn những tấm bánh tròn tròn và mỏng dẹt như tờ giấy
thủ công. Cái lò than đỏ hồng thì được đặt ngay trước mặt, mỗi khi có khách đến
mua thì bà mới quạt để cho bánh nóng và giòn. Có lẽ vì bà tên Lan, cho nên
người ta vẫn quen gọi là bà Lan Bánh Đa. Chỗ này đông người qua lại, nên bà bán
cũng chạy hàng lắm. Khách đến cửa hàng, sẵn tiện dư mấy đồng tiền lẻ thì mua
thêm chiếc bánh đa về cho trẻ con ở nhà. Lắm người vào cửa hàng chẳng mua được
gì, nhưng khi quay trở ra thì lại thích mua bánh của bà Lan. Có thể vì giá một
chiếc bánh đa chẳng đáng là bao. Nhưng cũng có thể họ muốn được trãi nghiệm cái
thái độ phục vụ khách hàng hòa nhã và tận tình của bà, vốn đối lập với thái độ
khó chịu của mấy cô mậu dịch viên chỉ ngồi cách đó có mấy bước chân mà
thôi.
Một đứa
bé chừng dăm, sáu tuổi lon ton theo mẹ đi cửa hàng, lúc quay trở ra nó cứ nắm
lấy tay mẹ mà nằng nặc đòi mua bánh đa. Mẹ nó định không mua, thế là đứa bé
khóc thét lên mà nhất quyết không chịu về. Dỗ mãi không được, bà mẹ đành phải
chiều con:
- Bà bán
cho chiếc bánh đa!
Bà Lan
chậm rãi lấy từ trong mẹt ra một tấm bánh rồi bắt đầu hơ lên than để quạt.
Chiếc bánh đa với những hạt vừng li ti bám trên đó, lấm tấm không biết cơ man
nào mà đếm xuể. Rồi trong khi tay trái vẫn hơ bánh lên lò than, tay phải bà lại
phe phẩy chiếc quạt nan một cách uyển chuyển như đang làm xiếc vậy. Mùi bánh đa
thơm thơm dậy lên, không ngừng khêu gợi khứu giác của những người xung quanh.
Lúc này chiếc bánh như được phù phép, cứ thế nó nở to dần ra, người thính tai
thì có thể nghe được cả âm thanh lạo xạo phát ra từ đó. Cái màu đen thẫm ban
đầu giờ đây đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là một màu trắng xốp diệu kỳ. Những
hạt vừng màu đen cũng dần lộ ra, nổi bật trên cái nền trắng phau của bột gạo
ấy.
- Bánh
của chị đây! – Bà Lan vui vẻ đưa chiếc bánh vừa quạt còn nóng hổi cho khách.
- Bao
nhiêu tiền vậy bà?
- Chị cho xin hai ngàn!
Đứa bé
liền nín khóc, nó thích thú cầm cái bánh đa trong bàn tay nhỏ xíu, rồi hớn hở
quấn theo chân mẹ để theo về.
o0o
Bánh đa
vừa rẻ lại vừa ngon, vì thế mà lũ trẻ chúng tôi vẫn thường thích mua để ăn vặt.
Bánh giòn, khi bẻ thì kêu răng rắc, khiến cho cái lỗ tai nghe cũng thích thú
chẳng kém gì lúc ăn. Bẻ từng miếng bánh đa nhỏ cho vào miệng, ăn vừa giòn vừa
thơm. Cái vị thơm của gạo và bùi ngậy của vừng hòa quyện với nhau, ngon đến khó
tả. Đến nổi chúng tôi còn cao hứng mà làm hẳn một bài đồng dao, để rồi thi
thoảng lại vừa nắm tay nhau nhảy loăng quăng vừa hát:
Hai ngàn một chiếc bánh đa
Vừa thơm vừa dẻo tiền bà trao tay
Than hồng đã sẵn rồi đây
Tay phe phẩy quạt mang ngay về nhà
Mỗi khi
được người lớn cho tiền, thể nào chúng tôi cũng rủ nhau ra mua bánh đa của bà
Lan bằng được mới thôi. Phải nói là những chiếc bánh đa có một ma lực nào đó
hút hồn bọn trẻ chúng tôi đến lạ kỳ. Bất kể nắng mưa hay mùa đông giá rét, bà
Lan vẫn ngồi bán hàng nơi mái hiên nhà mậu dịch. Lắm khi trời mưa tầm tả, chúng
tôi vẫn thấy bà ngồi đó, cái dáng lom khom, gầy gò thấp thoáng sau màn mưa.
Những lúc như vậy thường không có khách, bà ngồi thu lu một mình bên gánh hàng
rồi nhìn ra ngoài trời mưa, đôi mắt thoáng buồn man mác, xa xăm. Năm thì mười
họa, mới thấy bà Lan nghỉ bán hàng một buổi. Chẳng cần phải hỏi, người ta cũng
biết ngay là bà đang có việc, hoặc chỉ vì bị mệt nên không đi được mà thôi.
Tôi hay
mua bánh của bà Lan, vì vậy mà bà đã quen mặt. Mỗi khi thấy tôi xuất hiện, bà
lại mỉm cười hiền hậu như là một lời chào đầy thân mật và ý nhị.
Một lần
tôi ngây thơ hỏi bà:
- Bà ơi!
Suốt ngày ngồi ngoài đường thế này mà bà không thấy mệt hả bà?
Đôi mắt
mờ đục của bà nhìn tôi âu yếm, rồi cất giọng nhẹ nhàng:
- Cũng
mệt nhưng bà thấy vui. Bà ngồi đây, nhìn người xe qua lại đã quen. Như vậy
có nghĩa là cuộc sống vẫn đang vận động cháu ạ. Nếu nghỉ ở nhà thì
bà chẳng biết làm gì, buồn lắm!
Hồi đó
quán hàng còn ít, cả xóm chỉ có vài cái quán bán hàng vặt với những thức đơn
giản như kẹo lạc, kẹo vừng, vài gói bánh quy cùng với bao thuốc lá. Cho nên
hàng bánh đa của bà Lan cũng được người ta nhớ đến nhiều lắm, nhất là lũ trẻ
như chúng tôi. Nhà ai có công buổi gì cũng hay ra mua bánh của bà, đơn giản vì
bánh đa ăn kèm được với nhiều thứ, lại là một thức dùng để nhắm rượu rất tiện.
Bà Lan
vốn là dân ngụ cư từ nơi khác đến đây và không có chồng con gì cả. Dáng người
bà mảnh dẻ, mái tóc bạc trắng với hàm răng đen đều đặn, lấp lánh như hạt na.
Thường thì bà vẫn vừa ngồi bán hàng vừa nhai trầu bỏm bẻm, như là một cái thú
vui thường trực của người già. Tính bà hiền, ít nói, chứ không liến thoắng như
nhiều người bán hàng khác vẫn thường thấy. Dường như quê bà Lan ở tận ngoài bắc
thì phải. Khi chúng tôi lớn lên thì đã thấy bà ngồi bán bánh đa chỗ này, chẳng
biết là bà vào đây từ khi nào và vì lý do gì nữa. Xóm tôi lúc ấy có nhiều người
ở nơi khác đến sinh sống và lập nghiệp lắm. Người ngoài bắc có, người trong
tỉnh cũng có, tất cả đều ở ngoài mặt đường quan hoặc gần chợ mà ít khi thấy họ
vào ở sâu trong làng. Thi thoảng người ta lại nghe bà Lan nói tiếng bắc, đối
với chúng tôi thì cái giọng đó nghe có vẻ ngồ ngộ, vì nó giống với lời đối
thoại của những nhân vật trong các bộ phim mà mình vẫn thường hay được xem trên
màn ảnh rộng. Ngoài những điều đó ra, chúng tôi không hề được biết gì hơn về bà
cả.
Lũ trẻ
chúng tôi đi học về, mỗi khi nhìn thấy có tấm áp phích bằng giấy màu dán ở ngã
tư là biết ngay có đoàn chiếu phim sắp đến. Từ đằng xa mấy đứa đã mừng hú, hò nhau
ba chân bốn cẳng chạy thẳng một mạch tới để xem. Hàng chữ đầu tiên mà chúng tôi
để ý là địa điểm, rồi sau đó mới đến tên phim là gì. Thường thì người ta vẫn
hay đề luôn thể loại phim ở cuối tờ quảng cáo, chẳng hạn như phim tâm lý tình
cảm, phim chiến đấu, phim thần thoại…; lũ trẻ vẫn khoái nhất là phim truyện
chiến đấu, bởi nó hợp với tâm lý hiếu động của lứa tuổi. Hôm nào mà có phim màu
nữa thì lại càng thích, vì hồi những năm 1980 ở ta còn ít phim màu lắm, chủ yếu
là phim đen trắng thông dụng.
Những hôm
có chiếu phim, chúng tôi ăn cơm từ sớm rồi háo hức rủ nhau đi xem. Lũ con nít
thấp người, cho nên phải đi sớm một chút để ngồi hàng phía trước thì mới nhìn
thấy rõ màn ảnh. Trước khi vào bãi, tôi và đứa bạn thân trong xóm thường ghé
hàng bà Lan để mua bánh đa. Rồi chúng tôi bẻ bánh thành những miếng nhỏ cho vào
túi áo, để lúc vào bãi ngồi xem phim thì lấy ra ăn cho tiện.
Chỗ cổng
ra vào bãi chiếu phim, người ta lấy tre nứa rào chặn hai bên, chỉ còn để chừa
một lối hẹp cho khách đi ở giữa. Tại đây, có hai người soát vé đứng đợi sẵn,
nét mặt lừ lừ nom đến phát sợ. Cách đó chừng dăm mét, một cô bán vé ngồi dưới
cái bóng đèn điện sáng trưng, nom thờ ơ, uể oải. Lũ nhỏ chúng tôi được vào bãi,
còn cánh thanh niên và người lớn thì phải mua vé. Khách mua vé xong rồi thì từ
từ mà đi vào phía trong. Sau khi nhận vé từ tay khách, người soát vé lập tức xé
ngay. Những mảnh giấy cứ thế lả tả rơi xuống, một lúc đã trắng xóa đưới mặt
đất.
Bên trong
bãi, chiếc máy nổ cũ kĩ chạy phành phạch, nghe đinh tai nhức óc. Trên hai chiếc
cột bằng nứa, người ta mắc một chiếc phông màu trắng khổ rộng có viền đen. Áng
chừng khoảng giữa của chiếc phông ấy, một chiếc loa công suất lớn được cột chặt
vào thân cây nứa, hướng quay về phía khán giả. Phim thì được đựng trong những
cái hộp bằng sắt hình tròn có đường kính độ vài gang tay. Mỗi hộp như vậy là
một tập được đánh dấu theo số. Chúng tôi có kinh ngiệm, cho nên chỉ cần nhìn
vào số hộp là biết được ngay phim có độ dài hay ngắn. Tiếng trò chuyện lúc này
rộ lên huyên náo khắp bãi. Người ta lớn tiếng gọi nhau để tìm chỗ ngồi, để đưa
cho nhau một chiếc ghế nhỏ. Thế rồi chiếc máy chiếu phim bắt đầu chạy rè rè,
bóng đèn điện vụt tắt, những hình ảnh đầu tiên xuất hiện trên màn hình. Tiếng
ồn ào lắng dần, người ta cùng hướng ánh mắt về phía chiếc phông để chăm chú
theo dõi bộ phim. Nội dung phim hấp dẫn khiến cho người xem bị cuốn hút. Thế
rồi người ta lại ồn ào, lại bàn tán. Trong khi mọi thứ đang hào hứng như thế, bổng
dưng âm thanh và màn hình bị tắt phụt. Mọi người ngơ ngác một lúc rồi chợt
hiểu: Đứt phim. Vậy là cả bãi lại phải chờ cho đến khi người ta nối xong phim
thì mới được xem tiếp những hình ảnh nhì nhằng, chắp vá. Ít khi có một buổi
chiếu phim nào diễn ra yên lành, trọn vẹn. Mà thường lúc thì đứt phim, khi lại
hỏng máy chiếu, máy nổ.
Tối nay
chúng tôi xem một bộ phim thần thoại, vì vậy mà không thấy gì hấp dẫn cho lắm.
Trong lúc chờ đến tập phim tiếp theo, đứa bạn lắc đầu chán chường mà quay sang
nói với tôi:
- Phim bữa nay
chán quá! Chẳng có đánh nhau gì cả…
Rồi cả
hai đứa lại thò tay vào túi, lấy những mẫu bánh đa ra nhai rau ráu để mà giết
thời gian.
o0o
Thế rồi
dạo này bà Lan bánh Đa đột nhiên thay đổi địa điểm bán hàng. Người ta không cho
bà ngồi bán ở chỗ cửa hàng mậu dịch nữa, lý do là vì sợ bà làm vướng chân khách
khứa. Chỗ mới này cũng ở trong xóm, nhưng cách ngã tư chừng vài trăm mét. Một
người quen thương tình, cho bà mượn bãi đất trống phía trước nhà mình để bà có
chỗ ngồi bán bánh. Ở đây tuy không đô hội như chỗ ngã tư, nhưng bù lại rộng rãi
và thoáng mát hơn nhiều. Bà Lan thuê người lợp một cái chái bằng tranh để mưa
gió khỏi hắt vào, lại còn kê thêm vài bộ bàn ghế con con cho khách ngồi nữa. Có
diện tích rộng, bà đặt hẳn một cái chõng tre đằng trước, rồi tha hồ bày la liệt
những bánh đa lên đó. Quán có mái che nhưng xung quanh lại là không gian rộng
mở để đón gió trời. Thoạt nhìn qua, quán bánh đa của bà trông chẳng khác nào
một cái tửu điếm dân dã ngoài trời vậy.
Bữa ấy
được chị gái sai đi mua bánh đa, tôi cầm tiền rồi lại thủng thẳng đi đến chỗ
quán bà Lan. Lúc đến nơi, đã thấy có mấy đứa con nít nữa cũng đang xúm xít ngồi
chờ đến lượt mình. Lại có cả ông lão Quang trong xóm đang ngồi uống rượu một
mình chỗ chiếc bàn được kê gần đó. Trên bàn có chai rượu trắng đã vơi quá nữa,
cùng chiếc bánh đa bẻ dở với những mảnh vỡ rơi tung tóe xung quanh. Ông lão mặc
một bộ quần áo lao động đã rách thủng lỗ chỗ, hai ống tay áo thì xắn cao lên
đến khuỷu tay, để lộ làn da nhăn nheo, đen sạm.
- Mùa
màng năm nay kém lắm bà ạ. Sâu bệnh dữ quá. Lại sợ mất mùa như năm ngoái mất
thôi! – Ông nói, mặt đã tím tái vì men rượu, nom lại càng có vẻ khắc khổ hơn.
- Vậy hả
ông? Thế thì tội cho bà con quá! – Bà Lan chép miệng cảm thông, trong khi tay
vẫn quạt bánh đều đều.
Khác với
ông lão, bữa nay bà Lan diện một cái áo kiểu bà ba màu xanh lơ, nom thanh nhã
và tươm tất lắm.
- Mất
mùa, lúa cũng mất giá. Nói vô phép, không có con cái gì như bà mà lại hay. Nhà
tôi có tám miệng ăn, thời buổi này tay làm hàm nhai đã khó, lấy gì mà nuôi thêm
lũ con nheo nhóc nữa hở trời? – Ông lão thở dài đánh thượt, tiếng than nghe đến
là não nề.
- Thế ông
có định kiếm thêm việc gì làm để nuôi các cháu không?
Vẻ mặt lão Quang nhăn nhúm lại vì đau khổ:
Vẻ mặt lão Quang nhăn nhúm lại vì đau khổ:
- Nhà
nước người ta cấm buôn bán, lại còn ngăn sông cấm chợ nữa. Như vậy thì mình còn
biết làm gì được đây hả bà? Dễ mà nhìn nhau chết đói mất thôi!
Lão lại
vớ lấy chai rượu, rót đầy chén mà cầm lên tu một hơi cạn ráo. Mùi rượu thơm
thơm, cay nồng xộc thẳng lên mũi. Rồi lão bẻ một miếng bánh đa, bỏ vào miệng mà
nhai rau ráu như muốn quên đi tất cả sự đời.
- Chẳng
dấu gì ông. Gia đình chúng tôi ngoài đó cũng đông con lắm. Tôi là con thứ hai
trong gia đình, ngoài ra còn năm người em nữa. Nhà nghèo, lại gặp chiến tranh
loạn lạc cho nên sơ tán mỗi người một nơi. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, thân phận con
người lúc này chẳng khác chi một cánh bèo trôi ông ạ! Vừa rồi gia đình mới nhận
được tin đứa em út sinh sống trên Thái Nguyên, nó lấy vợ rồi sinh con ở đó – Bà
Lan thong thả kể, nét mặt buồn buồn, dường như bà đang xúc động lắm thì phải.
Ngừng một
lát để đưa bánh cho khách, đoạn bà lấy hai ngón tay quệt quệt đám nước trầu còn
vương trên mép mà kể tiếp:
- Nghe
đâu nó làm nghề mộc để mưu sinh, cuộc sống cũng tạm ổn. Nam Định quê tôi vốn có
nghề mộc nổi tiếng mà ông. Đàn ông con trai, gần như ai cũng biết làm mộc cả.
Thế mà thành ra lại hay. Gặp lúc tha phương cầu thực, có cái nghề làm vốn để tự
nuôi thân.
“À! thì
ra bà Lan quê Nam Định” – Tôi tự nhủ, như là mình vừa phát hiện ra một điều gì
đó mới mẻ và thú vị lắm vậy.
Chẳng hề
để ý là ông lão có đang nghe mình nói hay không, giọng bà Lan vẫn cứ đều đều:
- Năm
ngoái cả gia đình tôi đoàn tụ, nhưng vẫn còn hai người nữa hiện chưa biết ở
đâu, sống chết thế nào…
- Sao gia
đình bà không đăng tin tìm kiếm người thân trên đài ấy? – Lão Quang bẻ một
miếng bánh đa, rồi quay sang sốt sắng hỏi.
- Cũng đã
đăng rồi. Nhưng vẫn chưa có kết quả gì ông ạ! Coi như là mất
tích!...
Dường như
bị câu chuyện của bà Lan làm cho cảm động, lão Quang lại nâng chén rượu mà uống
cạn một hơi. Lần này có vẻ như lão đã hơi ngà ngà say thì phải.
- Bữa nay
ông đã uống nhiều rồi. Thôi đứng uống nữa! Cố gắng giữ sức khỏe để còn lo cho
các cháu – Bà Lan nhìn lão khuyên giải, giọng đầy ái ngại.
Mấy đứa
kia đã mua được bánh mang về, chỉ còn lại một mình ông lão Quang ngồi gật gù
với be rượu sắp cạn trong tay.
- Bà cho
thêm cái bánh nữa về cho lũ trẻ!
Lão Quang
cầm cái bánh từ tay bà Lan, rồi lấy tờ tiền nhàu nát từ trong túi áo ra trả.
Đoạn lão cầm lấy chai rượu, đứng lên mà xiêu vẹo đi về nhà.
- Bánh
của cháu cũng được rồi đây! – Bà Lan nói nhẹ nhàng, rồi chậm rãi đưa bánh cho
tôi.
Bẵng đi
một thời gian, nghe người ta nói là dạo này bà Lan ốm nặng lắm, đến nỗi không
còn đi lại được nữa. Thế rồi ít ngày sau đó thì bà mất. Lúc ấy, xung quanh bà
chẳng có con cái hay người thân nào cả, chỉ có mấy người hàng xóm vì thương cảm
mà đến để thăm hỏi, động viên mà thôi. Từ đó, chẳng ai còn được nhìn thấy cái
dáng lom khom quạt bánh đa của bà Lan hàng ngày nữa. Cả những câu đồng dao mà
chúng tôi đặt cho hàng bánh của bà, giờ đây cũng không đứa nào còn nhớ. Ngôi
hàng bánh trở nên lạnh lẽo, nay cứ vô tình để mặc cho tháng ngày ngược xuôi và
những cơn gió lạnh lùa qua.