Âu Dương vốn là một họa sĩ tài hoa, nhưng mãi đến năm sáu mươi tuổi mà vẫn chưa thể nào nổi danh được. Làng hội họa đã có quá nhiều những tên tuổi gạo cội, giữa muôn vàn tinh tú ấy, dĩ nhiên là chẳng mấy ai để ý đến một ngôi sao bé nhỏ đang khiêm nhường tỏa sáng ở bên ngoài bầu trời rộng lớn kia. Mặc dù sống bằng nghề vẽ và có danh xưng hẳn hoi, nhưng đối với giới họa sĩ, ông vẫn bị coi như là một kẻ ngoại đạo. Quy luật của nghề hội họa vốn khắc nghiệt, giá trị của những bức tranh luôn tỉ lệ thuận với với tên tuổi và sự nổi tiếng của tác giả đã vẽ ra nó. Lịch sử thế giới cũng không hiếm những trường hợp họa sĩ tài danh, nhưng chỉ sau khi chết đi thì tranh của họ mới trở nên đắt giá và được công chúng biết tới. Có phải người đời thờ ơ, hay là vị thần nghệ thuật đánh giá cái đẹp theo cảm tính hay không, mà những họa sĩ có tài nhưng vô danh như Âu Dương luôn phải chịu những sự thiệt thòi và bất công lớn như vậy. Tranh vẽ ra khó bán, đời sống của gia đình ông cũng vì thế mà hết sức khó khăn, khổ cực. Trong căn nhà nhỏ tồi tàn vùng ngoại ô, họa sĩ Âu Dương cùng vợ con mình đã phải sống và trãi qua những tháng ngày đầy vất vả và gian nan ở đó. Vì không có tiền để thuê xưởng vẽ, ông sử dụng căn phòng khách để làm việc, ở đó ngoài bộ bàn ghế đơn sơ để tiếp khách, còn thì chỗ nào cũng thấy bày bừa bộn những giá vẽ, bảng màu và các bức tranh lớn nhỏ đủ mọi thể loại.
- Tôi mặc kệ ông làm
sao đó thì làm! Ngôi nhà đã quá sập sệ cần phải sửa chữa lại rồi. Bữa trước
thằng cả lại mới mất việc, mấy đứa cháu nội cũng thiếu cả tiền đóng học phí
nữa. Cả nhà phải điêu đứng khổ sở thế này, cũng tại cái nghề họa sĩ chết tiệt
của ông cả đấy! Suốt ngày chỉ chúi mũi vào vẽ và vẽ thôi. Quỷ tha ma bắt ông
đi! – Đó là những lời chì chiết mà hằng ngày ông phải nghe từ miệng bà vợ lắm
lời. Những lúc ấy, ông chẳng còn biết làm gì khác ngoài việc bịt mắt bưng tai
để chờ cho cơn thịnh nộ của vợ qua đi. Cũng may là tính bà ta tuy nóng nảy và
sồn sồn như vậy, nhưng được cái là luôn chiều chuộng và yêu thương ông hết mực.
Mấy chục năm trong nghề vẽ, tuy là không mang
lại cho họa sĩ Âu Dương danh tiếng và tiền bạc, nhưng cũng đã khiến cho ông
hiểu được tâm lý và thị hiếu của khách hàng. Ông nhận ra rằng: Đa phần những
người yêu thích và am hiểu hội họa thì thường không có tiền để mua tranh. Trong
khi những người sẵn sàng chi ra một món tiền rất lớn để có được những bức tranh
chẳng có mấy giá trị nghệ thuật thì lại không hiểu gì về hội họa cả. Họ là
những đại gia, ông chủ, hoặc là những người có địa vị cao trong xã hội. Họ mua
tranh vì hiếu kỳ, để đánh bóng tên tuổi và để chứng tỏ mình cũng là một người
trí thức sành điệu.
Suốt cả tuần nay người ta chẳng thấy họa sĩ Âu Dương đi đâu cả, hầu như ngày nào ông cũng đóng cửa và ngồi lỳ ở trong phòng một mình. Trên chiếc ghế bành bọc da quen thuộc, trước mặt là bao thuốc lá và ly cà phê đen, cứ thế ông ngồi ở đó mà trầm ngâm hằng giờ. Ông lặng lẽ hút thuốc, nhâm nhi cái vị đắng khổ hạnh của thứ nước uống đen đen, đặc sánh ấy và bóp trán suy nghĩ rất lung. Điều mà ông đang nghĩ đến chính là những ý tưởng nghệ thuật cứ dần hình thành trong đầu như một dòng chảy sáng tạo không ngừng. Những khi dòng chảy ấy bị đứt đoạn, ông lại đứng dậy, bần thần chắp hai tay ra sau lưng mà đi lại trong phòng như một cái bóng. Bằng sự tập trung cao độ, họa sĩ đang cố gắng tìm kiếm cho mình một ý tưởng sáng tạo mới, và ông tự nhủ rằng đó nhất định phải là một khuynh hướng thật mới mẻ, một con đường mà chưa ai từng bước đi. Và rồi vì gắng sức và suy nghĩ quá độ mà chỉ qua mấy ngày râu tóc ông đã bạc thêm ra, thân hình thì trở nên tiều tụy như sau một cơn bạo bệnh. Sau khoảng thời gian thai nghén nhọc nhằn, rốt cục thì đứa con nghệ thuật được chờ đón nhất của ông cũng đã ra đời. Đến ngày thứ bảy, ông đã đưa ra được một quyết định hệ trọng, tự mình sáng lập ra một trường phái hội họa mới, với tên gọi: “Hư Vô”.
Cũng giống như tên gọi, tranh của trường phái
“Hư vô” sẽ không có một hình vẽ nào trên đó hết, tất cả chỉ là một tấm vải màu
duy nhất, không hơn không kém. Tấm vải đó có thể là màu đen, màu xanh hoặc màu
vàng…, và dĩ nhiên, bên ngoài cũng phải được lồng khung cẩn thận.Vì nếu như
không có khung, tấm vải cũng chỉ là một tấm vải bình thường, không thể nào gọi
là tranh được.
Sau đây là chân dung tự họa của người sáng lập
ra trường phái hội họa “Hư Vô”: Thân hình cao và mảnh dẻ. Trên khuôn mặt trắng
trẻo và thư sinh ấy, chòm râu dài lưa thưa đã nhuốm màu phong sương, cho thấy một tâm
hồn khoáng đạt và đầy nghệ sĩ tính. Đôi mắt ngài hiền từ nhưng có ánh nhìn sắc
sảo và tinh anh. Đặc biệt là khuôn miệng rộng, giọng nói trầm ấm như tiếng
chuông đồng. Mỗi khi xuất hiện ở đâu đó, họa sĩ thường diện một bộ đồ lụa màu
mỡ gà với cái mũ bê rê đội lệch trên đầu. Mùa hè ngài đi dép nhựa đơn sơ, mùa
đông thì cũng chỉ đi một đôi dày vải có đế được làm bằng nhựa cao su. Với những
bước đi nhẹ nhàng, khoan thai, phong thái của ngài luôn toát lên cái vẻ tiên phong đạo cốt của một bậc chân nhân thoát tục.
o0o
Để bắt tay vào việc, họa sĩ Âu Dương mượn được
một căn nhà xưởng mà người ta bỏ hoang nằm ở gần nhà để làm nơi giới thiệu sản
phẩm của trường phái “Hư Vô”. Cùng với mấy người bạn nữa, họ sơn mới các bức
tường, dọn dẹp và trang trí lại như một phòng tranh thực thụ. Nhà xưởng rộng
tạo thành một không gian khá mở, vì thế mà thật phù hợp để cho các họa sĩ tha
hồ thể hiện những ý tưởng nghệ thuật phong phú của mình. Những bức tranh trưng
bày như đã nói, chỉ có khung viền bên ngoài, còn trong thì được lồng những tấm
vải lụa đủ màu sắc sặc sỡ.
Đến ngày chủ nhật của trung tuần tháng ba thì
phòng tranh “Hư Vô” được mở cửa khai trương, lúc này tiết trời mùa xuân ấm áp,
ánh nắng rực rỡ chan hòa khắp nơi. Nhiều bạn hữu, nhà báo, quan khách và cả
những người hiếu kỳ khác cũng đã có mặt. Mặc dù chưa biết Âu Dương là ai, nhưng
họ đến đây vì tin tưởng vào sự hiện diện của những họa sĩ tên tuổi nước nhà,
phần nữa cũng vì bản tính tò mò khó cưỡng lại.
Người ta vui vẻ bàn tán, rồi cùng háo hức rủ
nhau đi xem khắp lượt phòng tranh. Nhưng đến khi xem xong, tất cả đều lắc đầu
ngán ngẩm vì chẳng ai hiểu được gì cả. Một số người tưởng mình nhầm, nghĩ là sẽ
có những ẩn ý hay nét vẻ mờ ảo nào đó trên bức tranh để đánh lừa thị giác
chăng, bèn dụi mắt nhìn lại cho thật kỹ. Nhưng rồi dù đã nhìn đi nhìn lại ở
dưới mọi góc độ, rốt cục bức tranh cũng chẳng có hình thù gì khác ngoài nhưng
tinh thể màu sâu thăm thẳm. Rồi người ta bực mình, người ta văng tục. Nhiều
người nỏng nảy, còn chửi họa sĩ Âu Dương là kẻ háo danh lừa đảo. Nhưng họa sĩ
thì vẫn điềm nhiên như thường. Ở góc phòng đầu kia, trong bộ đồ vải lụa giản dị
và lịch thiệp, đầu đội mũ bê rê, ngài vẫn đang tươi cười, chậm rãi giới thiệu
tranh của mình cho những khách tham quan.
Không khí trong phòng tranh lúc này thật ồn
ào, náo nhiệt. Người đứng vòng trong vòng ngoài, chen lấn đến bở cả hơi tai.
Một phóng viên len được đến trước mặt họa sĩ Âu Dương - chủ nhân của phòng
tranh hôm nay. Tấm áo vét màu xám có gắn thẻ phóng viên trên người anh ta trễ
xuống, cả cái cổ áo sơ mi cũng xộc xệch vì bị chen lấn, xô đẩy. Người phóng
viên lúng túng sửa lại cặp kính cận to đùng đang đeo trên khuôn mặt trái xoan
linh lợi và tự giới thiệu về bản thân. Rồi sau khi đã lịch sự xin phép được
phỏng vấn, anh ta chìa cái máy ghi âm nhỏ bằng bàn tay ra trước mặt họa sĩ Âu
Dương, bắt đầu câu hỏi của mình:
- Thưa họa sĩ! Xin ngài hãy tuyên bố lý do của
cuộc triển lãm hôm nay?
Dù đã quen với phong thái điềm đạm, nhưng bữa
nay họa sĩ Âu Dương cũng không tránh khỏi những sự căng thẳng, hồi hộp. Vì
chính cái giây phút này đây, nó sẽ quyết định một bước ngoặt hết sức quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của ông. Ông trịnh trọng đưa tay lên sửa lại cổ áo,
đằng hắng một tiếng rất vang rồi hướng ánh mắt về phía phóng viên, cất giọng
hào hứng:
- Kính thưa quý vị! Tôi là một người hoạt động
trong lĩnh vực hội họa đã mấy chục năm nay. Những lối mòn nghệ thuật lúc này đã
không còn đủ sức hấp dẫn tôi được nữa, vì vậy mà tôi quyết định sẽ tự tìm ra
cho mình một lối đi riêng. Và đó cũng chính là lý do mà tôi lập ra trường phái
hội họa “Hư Vô” như quý vị đã thấy ngày hôm nay!
- Đồng ý với ông! Nhưng có vẻ như chẳng có bức
tranh nào, ngoài những cái khung rất đẹp và những tấm vải lụa màu. Có thể nói
đây là một cuộc triển lãm khung ảnh thì đúng hơn? – Phóng viên hỏi tiếp, sau
khi đã nháy mắt và mỉm cười đầy ẩn ý với những người đứng xung quanh.
Họa sĩ Âu Dương vẫn tỏ ra điềm tĩnh:
- Tranh của trường phái “Hư Vô” chỉ dành cho
những người có thiên khiếu nghệ thuật và có óc tưởng tượng phong phú. Đối tượng
phục vụ của nó là những người có văn hóa cao, có khả năng cảm thụ nghệ thuật
tốt. Trên bức tranh không hề có nét vẽ nào cả, khi xem, người ta sẽ tự hình
dung ra những hình hài và sắc thái trong đó. Tóm lại là họ sẽ phải dùng ý niệm
để cảm nhận nội dung bức tranh!...
Tiếng vỗ tay và tiếng xì xầm rộ lên.
Người phóng viên tươi cười, kiên nhẫn chờ cho
tiếng ồn ào lắng xuống, rồi tiếp tục hỏi:
- Vậy tuyên ngôn của trường phái “Hư Vô” là
gì? Thưa ông!
- Trường phái hư vô có ba “Không”. Đó là:
“Không có gì”, “Không thấy gì” và “Không hiểu gì”. Chỉ những người đạt đến cảnh
giới cao trong nghệ thuật thì mới biến được những từ “Không” kia trở thành “Có”.
Khi ấy họ sẽ thấy nó đẹp và lộng lẫy vô cùng. Họ sẽ rơi vào một trạng thái mê
ly, ngất ngây mà những người tầm thường khác chẳng thể nào có được!...
- Vậy ông có thể nói cho mọi người biết nội
dung bức tranh này là gì không? – Phóng viên chỉ vào bức tranh treo ngay trên
đầu mình, rồi hướng ánh mắt ranh mãnh về phía họa sĩ Âu Dương, láu lỉnh hỏi. Rõ
ràng là anh ta đang dồn người được phỏng vấn vào một thế bí khó chống đỡ.
Nhưng xem ra họa sĩ Âu Dương chẳng có vẻ gì là
khó xử cả. Sau câu hỏi của phóng viên, ông chậm rãi quay người về phía bức
tranh, đầu hơi cúi xuống và bắt đầu nhắm nghiền hai con mắt lại giống như một
nhà sư đang nhập thiền. Chừng vài giây sau, ông mở bừng mắt ra, cất giọng từ
tốn:
- Bức tranh này miêu tả phong cảnh của một
làng quê trù phú. Ở đó có những mái nhà lấp ló sau rặng tre xanh, xa xa là đồng
lúa chín vàng, và cả những cánh diều đang bay lơ lửng trên không trung!…
- Ồ! Thì ra vậy! – Anh chàng phóng viên không
kìm được nữa, kinh ngạc thốt lên.
Nói rồi anh ta cũng bắt chước họa sĩ, quay
người về phía bức tranh, rồi nhắm nghiền hai con mắt lại vài giây như để nhập
thiền.
- Tôi cũng nhìn thấy như vậy! Chúc cho trường
phái tranh trứ danh của ngài ngày một phát triển và không ngừng thăng tiến trên
con đường nghệ thuật! – Anh chàng phóng viên hồ hởi bắt tay họa sĩ và nói.
Sau cuộc phỏng vấn quan trọng ấy, đã có rất
nhiều người tự nhận là mình có thể sử dụng ý niệm để hiểu được nội dung trong
các bức tranh. Họ khen tranh của trường phái “Hư Vô” đẹp, nhiều màu sắc và đặc
biệt là chứa đựng trong đó cả một triết lý hội họa sâu xa, mặc dù chẳng ai nhìn
thấy gì và cũng chẳng hiểu gì cả.
o0o
Với những quy luật chẳng bao giờ định sẵn,
cuộc sống luôn mang lại cho con người ta những đổi thay thú vị đến không ngờ.
Giống như trong một phép màu kỳ diệu, kể từ khi tuyên bố sáng lập trường phái
hội họa “Hư Vô”, cuộc đời của họa sĩ Âu Dương cũng theo đó mà thay đổi hẳn. Đã
có rất nhiều những nhà tài trợ và khách hàng tìm đến với ông. Họ toàn là người
giàu, những người tự nhận mình có văn hóa và học thức cao. Họ mua những bức
tranh của ông với cái giá vô cùng đắt đỏ, nhưng lại hoàn toàn vui vẻ và tự
nguyện. Chính quyền thành phố thì tổ chức những cuộc triển lãm để cho ông giới
thiệu và khuếch trương dòng tranh của mình. Người ta đưa ông lên truyền hình,
đọc các bài diễn văn ca ngợi ông. Họ tung hô ông, nâng ông lên, đơn giản chỉ vì
không ai muốn tự nhận mình là một kẻ kém văn hóa và không có óc cảm quan nghệ
thuật cả. Danh tiếng của họa sĩ Âu Dương cũng vì thế mà bổng dưng nổi lên như
cồn. Các họa sĩ gạo cội từ chỗ không biết đến cái tên Âu Dương là ai, nay bắt
đầu chào đón ông, nhìn ông với ánh mắt vị nể và thán phục như là một người anh
cả trong nghề. Vậy là cuộc đời ông từ nay đã thực sự bước sang một trang mới.
Ông ngập ngụa trong những lời tán tụng, những buổi hội nghị và ánh hào quang
sáng chói do sự nổi danh mang lại.
Lúc này, trường phái hội họa “Hư Vô” đã trở
thành một hiện tượng xã hội hết sức phổ biến. Danh tiếng của họa sĩ Âu Dương
cũng vì thế mà ngày một bay xa, không một nhân vật quyền thế và có máu mặt nào
trong thành phố lại không biết đến ông cả, kể cả ngài tỉ phú Sơn Mozart đáng
mến cũng vậy.
Đến đây, kể cũng nên sơ qua một chút về tiểu
sử của ngài tỉ phú Sơn Mozart. Sở dĩ người ta gọi là tỉ phú, vì ngài rất giàu,
có thể nói là giàu nhất nhì cái thành phố này vậy. Thủa hàn vi, nghe nói là
ngài chỉ học hết lớp năm lớp sáu gì đó rồi bỏ nhà đi làm thuê biền biệt. Đến
năm ngoài hai mươi tuổi, sau khi đã lang bạt kỳ hồ, ngài bắt đầu dừng lại và
trú chân ở thành phố này. Với nghề buôn bán sắt vụn, tích tiểu thành đại rồi
ngài cũng có được một số vốn kha khá. Sau đó thì ngài chuyển sang kinh doanh đủ
thứ mặt hàng, từ điện tử điện lạnh cho đến bảo hiểm và kể cả lĩnh vực bất động
sản nữa. Nhờ có nhiều mánh mung cũng như các mối quan hệ rộng, ngài giàu và
phất lên rất nhanh. Người ta ước lượng sự giàu có của ngài thông qua số lượng
tài sản chìm nổi, những cơ sở kinh doanh mà ngài sở hữu, những tài khoản kếch
xù gửi trong ngân hàng. Và họ nhận ra rằng, ngài rất, rất giàu. Để tương xứng
với cái sự giàu đó, không có cái tên nào phù hợp hơn để đặt cho ngài ngoài danh
xưng tỉ phú cả. Dĩ nhiên là người nổi tiếng nào thì cũng có người yêu kẻ ghét.
Những người thiếu thiện cảm thì gọi ngài là trọc phú, nguyên nhân cũng bởi cái sự ít học và xuất thân hàn vi của ngài. Ngài tỉ phú có một thói quen rất thượng lưu, ấy là
thích nghe nhạc giao hưởng. Mặc dù ngài chẳng hiểu mô tê gì về âm nhạc cả,
nhưng mỗi khi nghe nhạc giao hưởng thính phòng, ngài lại lim dim con mắt, một
tay thì đánh nhịp, tay kia thì vung vẩy như một vị chỉ huy dàn nhạc đại tài mà
người ta vẫn thường hay thấy trên ti vi vậy. Trong số các nhạc sĩ của dòng nhạc
giao hưởng, ngài tỉ phú đặc biệt hâm mộ nhạc sĩ thiên tài Mozart của nước Áo.
Chính vì vậy mà người ta gọi ngài là Sơn Mozart cho dễ nhớ. Từ đó, cái tên Sơn Mozart này cũng
được thiên hạ ưa thích và sử dụng phổ biến hơn cả.
Ngoài ngôi biệt thự mặt phố sang trọng mà cả gia đình hiện nay đang ở, cách đây vài năm, ngài tỉ phú Sơn Mozart còn cho xây thêm một tòa lâu đài nữa ở ngoại ô để cho mình dưỡng già. Tòa nhà được xây trên một mảnh đất mà trước đây ông mua lại từ một công ty nhỏ phá sản. Đó là một mảnh đất đẹp, nằm gần đường quốc lộ và rộng đến cả ngàn mét vuông. Tòa lâu đài cao ba tầng, có đến gần vài chục phòng và được kiến trúc theo lối tân cổ điển Châu Âu lộng lẫy. Nhằm trang trí cho công trình sắp hoàn thành của mình, ngài đã vung tiền ra để sưu tầm các đồ vật quý hiếm từ khắp nơi trên thế giới mang về đây. Nào là tranh Ý, thảm Ba Tư, rồi thì gốm sứ Trung Quốc và còn có cả Ngà Voi từ lục địa đen Châu Phi nữa. Có thể nói, trong lâu đài của tỉ phú Sơn Mozart lúc này gần như đã có đầy đủ hầu hết các bảo vật đắt giá ở trong thiên hạ. Tuy vậy nhưng kho báu của ngài vẫn còn thiếu một thứ quan trọng, mà ngài cho rằng nếu không có nó thì những thứ kia cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Ngài muốn thứ quan trọng ấy phải được trưng bày ở một nơi sang trọng nhất, được nhiều người nhìn thấy nhất mỗi khi ra vào tòa lâu đài của mình. Cũng vì ý tưởng đó mà ngay từ khi xây dựng công trình, ngài đã cho thiết kế ở đại sảnh một chỗ để treo bức tranh khổ lớn của trường phái “Hư Vô” bất hủ.
Bữa ấy, sau khi đã dùng xong món điểm tâm buổi
sáng tại nhà riêng, ngài cho gọi quản gia (là một người đàn ông đã lớn tuổi)
đến hỏi:
- Ngươi biết họa sĩ Âu Dương chứ?
Viên quản gia cong người như con Tôm, đáp:
- Dạ, ngài ấy là người sáng lập nên trường
phái “Hư vô”. Khắp cả thành phố này, ai mà chẳng biết đến tên tuổi của người
họa sĩ trứ danh ấy ạ!
Ngài tỉ phú mỉm cười, gật đầu hài lòng.
- Nhà ngươi hãy mời ông ta đến đây ngay! Ta
muốn gặp!
Quản gia nhíu mày, gãi đầu gãi tai định nói thêm điều gì đó, nhưng ông chủ của anh ta đã nóng
nảy xua tay:
- Ta nói vậy thì nhà ngươi cứ thế mà làm theo!
Chớ có hỏi nhiều!
Kể từ khi nổi danh, họa sĩ Âu Dương đã từng
được tiếp xúc và gặp gỡ rất nhiều những nhân vật quyền quý của giới thượng lưu.
Nhưng với ngài tỉ phú Sơn Mozart lần này thì lại khác hẳn, cầm tờ danh thiếp
của ông ta trên tay mà ông không khỏi ngạc nhiên và bất ngờ. Đến nổi khi người
quản gia của ngài tỉ phú đi rồi mà ông vẫn cứ đứng mân mê mãi tờ danh thiếp
trên tay, lòng những phân vân tự hỏi không biết ông ta muốn tìm gặp mình có
việc gì? Xét về mặt xã giao, một họa sĩ nghèo như ông thì cũng không thể không
nể mặt ngài tỉ phú được. Hơn nữa, chính ông cũng đang tò mò muốn tận mắt mục sở
thị con người giàu có và nổi tiếng nhất nhì thành phố này. “Biết đâu lại bắt
gặp một mối làm ăn lớn!” – Ông tặc lưỡi tự nhủ như vậy. Thế rồi sau khi đã lựa
chọn cho mình một bộ comple phù hợp nhất để mặc vào, ông vội vàng thu xếp để
đến gặp ngài tỉ phú ngay.
Chừng 15 phút sau thì taxi đã đưa họa sĩ Âu
Dương có mặt tại tòa lâu đài của ngài tỉ phú Sơn Mozart.
Một nữ nhân viên xinh đẹp ra đón họa sĩ Âu
Dương ở cổng và dẫn ông đi theo mình. Họ đi qua một khoảng sân rộng được trồng
rất nhiều những giống cây hoa quý hiếm rất đẹp. Ở khoảng giữa sân, có một
cái đài phun nước được bao quanh bởi những thảm cỏ xanh rì. Thấp thoáng sau
rặng liễu rũ bóng, một nhóm người đang thi công lối đi quanh một cái hồ nước
nhỏ. Cách đó một đoạn lại có mấy người nữa đang đúc chậu, tô tượng bên cạnh
những đống vật liệu xếp chồng ngổn ngang. Tiếng cưa, xẻ, tiếng đục đẽo lách
cách vang lên không ngớt. Cô gái bước đi với một dáng điệu khoan thai, làn eo
thon lộ rõ trong bộ đồng phục màu xanh da trời được cắt may rất khéo và vừa
vặn. Không chỉ xinh đẹp, mà mùi nước hoa đắt tiền trên người cô cứ không ngừng
tỏa ra thơm lừng, quyến rũ. Họa sĩ Âu Dương hít một hơi dài cái hương vị ngất
ngây ấy và bất giác có một liên tưởng thú vị. Ông cảm tưởng như mình đang lạc
vào một khung cảnh thần tiên, mà cô gái kia chính là nàng tiên xinh đẹp đang
dạo chơi thơ thẩn trong vườn đào. Lên đến tầng hai, họ đi qua rất nhiều lối rẽ
quanh co có những chiếc cột tròn được ốp bằng đá cẩm thạch trắng. Những vòm
hành lang rộng rãi được chạm khắc công phu cũng lần lượt hiện ra, cho thấy sự
kỳ công, tỉ mỉ của một công trình thế kỷ. Cuối cùng, hai người dừng lại trước
một căn phòng lớn ở vị trí chính giữa tòa nhà.
- Mời ngài vào! Ông chủ đang đợi ở trong đó! –
Cô gái nói và chìa bàn tay đeo găng trắng muốt, miệng cười như hoa đào hé nở.
Vẻ tráng lệ của căn phòng khiến cho họa sĩ Âu
Dương choáng ngợp, tất cả đều rất đẹp, rất sang trọng và nằm
ngoài trí tưởng tượng của ông. Một màu vàng rực rỡ chói lòa khiến ông bất giác
phải đưa tay lên che mắt. Nhưng đó không phải là ánh đèn điện, mà là
thứ ánh sáng được tỏa ra từ các đồ vật mạ vàng bên trong căn phòng. Họa sĩ Âu Dương có cảm tưởng như mình chính là anh chàng Alibaba nghèo khó thủa nào, ngay khi nhìn thấy cánh cửa của kho báu
vừa được mở ra sau câu thần chú nhiệm mầu. Bối rối và hoang mang, ông
quay lại toan hỏi thì thấy cô gái lúc nãy đã lui gót tự lúc nào.
Nhìn căn phòng bóng loáng, sạch như lau như li
không một hạt bụi, họa sĩ ái ngại ngó xuống đôi giày lấm lem của mình, rồi sau
phút lưỡng lự, ông cũng mạnh dạn bước vào bên trong. Căn phòng rộng đến nổi,
họa sĩ Âu Dương có cảm giác những bước chân của mình như đang bơi ở trong đó
vậy. Những chùm đèn bằng pha lê trong suốt, những đồ vật dát vàng óng ánh cứ thế
lần lượt lướt qua mà ông chẳng thể nào đếm xuể. Đã vài lần họa sĩ đưa tay lên
sửa lại vành mũ để cố dấu đi cái cảm giác hồi hộp, lo âu, và rồi chẳng biết từ
lúc nào ông đã đứng trước bộ bàn ghế sang trọng được kê ở mãi tận góc phòng ấy.
Một người đàn ông to béo ngồi ở đó, phía sau có hai vệ sĩ mặc áo vest đen đang
đứng. Họ nhìn ông mà như không nhìn, vẻ mặt lạnh lùng, vô cảm. Người đàn ông
đang ngồi thấy họa sĩ xuất hiện thì nét mặt tỏ vẻ hơi vui, trên cặp môi dày và
bóng nhẫy nở một nụ cười dè sẻn như để chào đón vị khách quý viếng thăm.
- Chào ngài! Ngài muốn tìm gặp tôi? – Họa sĩ
bước tới, chủ động lên tiếng trước và chìa bàn tay của mình ra.
- Mời ngài ngồi! – Ngài tỉ phú nói bằng một
giọng hơi the thé và bắt tay họa sĩ trong khi vẫn ngồi, bàn tay ông ta múp míp,
mềm và lạnh như băng.
Khách cảm ơn chủ nhà và khép nép ngồi xuống.
Lần đầu tiên trong đời, ông được ngồi trên một chiếc ghế vừa đẹp vừa sang trọng
đến như vậy.
Lúc này, họa sĩ mới có dịp nhìn kỹ hơn con
người đang ngồi trước mặt mình.
Đó là một người trạc tuổi ông, ăn vận toàn đồ
tây và chân cũng đi một đôi dày tây màu đen bóng nhẫy. Thân thể ông ta phì nộn,
đến nổi có cảm giác như những chiếc cúc của chiếc áo sơ mi đang mặc trên người
vì thế mà có thể bị bung ra bất cứ lúc nào. Trong khi ngài tỉ phú cúi xuống,
cái cằm có ngấn cứ bành ra giống hệt như một vòng đai bằng thịt đeo quanh cổ.
Ngài đang ngồi trên một chiếc ghế mạ vàng được chạm rồng phượng, nom giống như ngai
vàng trong cung điện của các vị hoàng đế thời xưa. Trên khuôn mặt hồng hào và
béo tốt của con người thành đạt ấy, luôn toát lên một vẻ gì đấy của sự tự mãn, quyền
uy.
Một nam phục vụ bóng bẩy trong bộ đồng phục trắng bê khay đồ
uống từ phòng trong đi ra. Anh ta tiến đến trước mặt khách, lịch sự đặt lên bàn
hai ly nước cam rồi lại lặng lẽ quay gót vào trong.
- Tôi mời ngài đến đây là vì có chút việc!
Chẳng hay ngài có sẵn lòng đáp ứng yêu cầu của tôi? – Ngài tỉ phú nói và đưa
bàn tay có đeo nhẫn kim cương rút một điếu xì gà, châm lửa.
- Xin ngài cứ nói. Tôi đây xin nghe! – Họa sĩ
chắp hai tay vào nhau, nhìn người đối diện một cách chăm chú. Trong thâm tâm,
ông vẫn đang cố đoán thử xem vị chủ nhân kia muốn nhờ vả hay mong muốn điều gì
ở mình.
Ngài tỉ phú khoát rộng cánh tay:
- Số là tôi đang chuẩn bị khánh thành tòa biệt
thự của mình. Đó là một công trình nghệ thuật thực sự. Nó rất đồ sộ và tốn kém,
có giá trị cả về mặt kiến trúc lẫn văn hóa, nghệ thuật. Và để xứng đáng với
công trình thế kỷ ấy, tôi muốn đặt ngài một bức tranh được vẽ theo trường phái
“Hư vô” để treo ở đại sảnh tòa nhà. Vì chỉ có tranh của ngài thì mới xứng đáng
được gọi là đỉnh cao của hội họa – Ngài tỉ phú dừng lại giây lát, vỗ vỗ bàn tay
vào trán như để cố nhớ ra điều gì, rồi nói tiếp - Cũng giống như thể loại giao
hưởng trong âm nhạc vậy. Dù không lời, nhưng người ta sẽ cảm nhận được cái hay,
cái đẹp của nó thông qua giai điệu và nghệ thuật trình diễn nhạc cụ. Tranh của
ngài cũng như vậy!...
- Ngài quả đúng là một con người am hiểu nghệ
thuật! – Họa sĩ tươi cười đáp lễ, trong lòng cảm thấy vui vui.
Hai cánh mũi của ngài tỉ phú cứ thế phồng lên
xẹp xuống, còn da mặt thì đỏ ửng lên như bị cảm nắng, rõ ràng là ngài đang rất
cảm động. Sau khi dành vài giây để tiêu hóa lời khen ngợi chân thành đó, ngài
bất giác thở dài rồi vỗ nhẹ bàn tay xuống mặt bàn mà than rằng:
- Đúng là thiên tài mới biết thiên tài! Chỉ có
họa sĩ Âu Dương là người hiểu ta mà thôi!
Không gian quanh chiếc bàn lắng lại chừng vài phút như để sẻ chia và cảm thông với sự buồn rầu chính đáng của ngài chủ nhân tòa lâu đài.
- À! Suýt nữa thì tôi quên mất! – Ngài tỉ phú
giơ bàn tay lên, nói thêm – Tôi muốn bức tranh phải được vẽ xong đúng dịp khánh
thành tòa nhà vào tháng sau!
- Nếu vậy thì xin ngài hãy dẫn tôi đi xem ngay
bây giờ! – Họa sĩ Âu Dương nhấp nhổm trên ghế, có vẻ như ông cũng đang rất sốt
ruột muốn được đi khảo sát thực địa công trình.
Cả bốn người họ đều rồng rắn kéo nhau đi xuống đại
sảnh. Ngài tỉ phú Sơn Mozart bước đi đường bệ, hai cánh tay ngài khuỳnh khuỳnh
sang hai bên vì cái bụng to quá cỡ của mình. Họa sĩ Âu Dương gò lưng khiêm tốn
đi bên cạnh, dáng điệu gầy gò và thư sinh. Hai người vệ sĩ lúc này cũng đi ngay
phía sau, cách ngài tỉ phú và ông họa sĩ chỉ vài bước chân. Đại sảnh nằm ở tầng
một, ngay lối cửa chính đi vào tòa lâu đài.
Ngài tỉ phú ngước mắt nhìn lên, chỉ tay vào vị
trí treo bức tranh:
- Ngài xem! Một bức tranh khổ lớn, có chiều
dài ba mét, chiều rộng hai mét lận. Ngài định tính chi phí bao nhiêu cho bức
tranh vĩ đại này?
Tuy khá thú vị với cách dùng từ mang tính thậm
xưng của của ngài tỉ phú, nhưng họa sĩ vẫn tỏ ra khiêm nhường:
- Tôi không dám nói bức tranh đó là vĩ đại.
Nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Thưa ngài! Còn về mặt chi phí, xin tùy ngài
định liệu!…
- Tôi trả cho bức tranh này hai triệu đô. Nếu
làm tốt sẽ được thưởng thêm. Như vậy đã đủ cho ngài làm việc hay chưa?
- Dạ đủ! …Đủ lắm ạ!... – Họa sĩ Âu Dương lắp
bắp như không tin vào tai mình. Đây là món tiền rất lớn đối với một họa sĩ
nghèo như ông.
Họa sĩ Âu Dương đưa mắt quan sát khắp xung
quanh một lượt, rồi nói thêm:
- Cứ theo ý tôi thì khung của bức tranh này
phải được làm theo lối cổ điển thì mới phù hợp. Và để cho màu sắc tương quan
với bối cảnh nơi này, nó cũng phải được mạ vàng!
- Phải! Phải! Vậy thì mong ngài họa sĩ cứ thế
mà làm đi cho! – Ngài tỉ phú đưa tay vân vê cằm, tỏ vẻ hài lòng.
o0o
Tại buổi lễ khánh thành tòa lâu đài của ngài
tỉ phú Sơn Mozart. Những chiếc bàn tròn được phủ khăn trắng muốt kê xen kẽ dưới
những tán cây xanh tốt trước sân lâu đài. Thấp thoáng những nhân viên phục vụ
đi lại giữa các hàng ghế nỉ sang trọng, tiếng loa, tiếng nhạc xập xình, quang
cảnh như trong một buổi dạ tiệc ngoài trời. Có rất nhiều các quan khách thuộc
giới thượng lưu đã có mặt ở đây. Ở hàng ghế đầu, họa sĩ Âu Dương đang ngồi trò
chuyện vui vẻ cùng với mấy người quen và khách hàng cũ. Cũng như ngài tỉ phú
Sơn Mozart, rất nhiều người trong số họ đã từng mua và treo tranh của trường
phái “Hư Vô” trong nhà mình. Chỉ có điều là chưa ai từng dám bỏ ra một số tiền
lớn như vậy cho một bức tranh như ngài tỉ phú đã làm. Bức tranh ấy lúc này đã
được treo vào vị trí ở trên đại sảnh, bên ngoài phủ một tấm lụa màu hồng rất
đẹp. Tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn chờ giây phút xuất hiện của ngài chủ nhân tòa
lâu đài nữa mà thôi.
Đúng 9 giờ 30 phút, một chiếc xe Mercedes màu đen bóng lộn từ phía ngoài cổng lâu đài chầm chậm chạy vào và đỗ xịch ngay trước thềm đại sảnh. Cửa xe mở, ngài tỉ phú bước ra trong bộ comple sang trọng, hai bên có vệ sĩ đi kèm. Sau khi giơ tay và mỉm cười để chào khắp lượt các vị quan khách hiện diện, ngài tỉ phú trịnh trọng ngồi vào chỗ ghế danh dự của mình.
Người chủ trì mặc quần tây đen, áo sơ mi trắng có thắt nơ ở cổ nhanh
nhẹn bước lên sân khấu. Bằng một chất giọng cao và rất vang, anh ta bắt đầu đọc
lời giới thiệu nội dung của buổi lễ khánh thành. Rồi khi tiếng vỗ tay của các quan khách
vừa ngớt, người đó quay nhìn về phía hàng ghế danh dự, hào hứng cất cao giọng:
- Xin giới thiệu với quý vị một vị khách thật
đặc biệt, đồng thời cũng là tác giả của bức tranh vĩ đại hôm nay: Họa sĩ Âu
Dương!
Nghệ sĩ Âu Dương trong bộ đồ lụa màu mỡ gà
quen thuộc, đầu đội mũ bê rê, chậm rãi đứng lên trong tiếng vỗ tay không ngớt.
Ông bước đến bên ngài tỉ phú, lịch sự đưa tay lên mời. Ngài tỉ phú cũng hãnh
diện đứng dậy, đưa bàn tay run run chỉnh đốn lại trang phục của mình rồi cùng
sánh bước với họa sĩ trứ danh Âu Dương tiến về phía đại sảnh. Khi họ đã đứng
bên dưới chỗ treo bức tranh, họa sĩ lại giơ tay lên mời lần nữa. Với một vẻ mặt
hết sức nghiêm trang, ngài tỉ phú đưa tay cầm lấy sợi dây, giật mạnh. Tấm vải
lụa màu hồng từ trên cao tụt dần xuống đất, để lộ ra bức tranh của trường phái “Hư
Vô” vĩ đại. Đó là một bức tranh khổ lớn, khung mạ vàng rất đẹp, bên trong được
căng một tấm vải màu xanh nước biển.
Giây phút ấy như bùng nổ, người ta ùa lên sân
khấu, rồi người ta tung hô và tán tụng vẻ đẹp của bức tranh không ngớt.
Chẳng biết từ lúc nào, viên quản gia đã dẫn
theo cả một đám gia nhân xúm xít vây quanh ngài tỉ phú Sơn Mozart để hầu hạ.
Bằng một chất giọng xu nịnh đã được tôi luyện lâu năm, hắn ta khom người, xoa
xoa hai bàn tay vào nhau, khúm núm:
- Bức tranh kia vẽ gì vậy, thưa ngài!
Ngài tỉ phú chắp hai ta ra sau lưng, quay
người về phía bức tranh và nhắm nghiền mắt lại như đang thiền định. Vài giây
sau, ngài mở bừng mắt ra, gật gù:
- Một bức tranh diễm lệ, chứa đựng hết thảy
mọi vẻ đẹp ở trên đời! Nó thật là xinh đẹp và lộng lẫy! – Ngài thao
thao bất tuyệt, rồi phẩy tay - Dĩ nhiên là chỉ mình ta hiểu được. Còn như các
ngươi thì biết cái gì!...
Đám đầy tớ lại khom lưng, uốn lưỡi hót như
khướu:
- Vâng! Vâng! Chỉ những bậc quyền quý và có
văn hóa cao như ngài thì mới hiểu được thôi ạ!....
Được khen, ngài tỉ phú đứng thẳng người lên,
ưỡn ngực và nở một nụ cười đầy mãn nguyện. Nhưng để có được nụ cười ấy, ngài đã
phải bỏ ra mất hai triệu đô la. Cổ nhân nói quả không sai: “Mua danh ba vạn,
bán danh ba đồng”. Ngài tốn cả núi tiền như vậy chỉ để mua một cái khung tranh
mạ vàng và tấm vải tô màu, nhưng giả như bây giờ mà có đem biếu không thì chắc cũng
chẳng có ai rước đi cho vậy.
Dĩ nhiên, chỉ có họa sĩ Âu Dương là người biết
được nội dung của bức tranh ấy chứa đựng những gì. Đó chính là những thói hám
danh, thói a dua và sĩ diện hão của những con người có danh vọng nhưng trí tuệ thì lại hết
sức kém cỏi, tầm thường.