Cách gọi đó không ra thân mật, cũng chẳng phải là khinh miệt gì sất. Theo thói quen của người nhà quê, thì đó là kiểu xưng hô vô thưởng vô phạt, để bày tỏ một thái độ giao tiếp bâng quơ cho qua chuyện vậy. Người ta không quan tâm tới anh, nhưng không có nghĩa là anh vô danh, việc cái tên của anh đã được vang lên khắp hang cùng ngõ hẽm cũng đã đủ chứng minh điều đó.
Hàng tỉnh thì không dám nói, chứ ở hàng
huyện thì có lẽ ai cũng biết mặt biết tên anh cu Tam cả. Sở dĩ như thế, vì hễ
chỗ nào trong vùng có người chết thì ở đó đều có sự hiện diện của anh. Dù chẳng
quen biết hay họ hàng gì với người đã khuất, nhưng anh vẫn có mặt để cầm cờ đám
ma, để tiễn đưa họ một đoạn đường cuối của đường trần. Anh làm việc đó một cách
tự nguyện, chẳng e ngại, cũng chẳng phải đợi ai nhờ vả, mời mọc. Thường xuyên
xuất hiện ở nơi đông người, lại trong những dịp đặc biệt như thế, dĩ nhiên là
không lấy gì làm lạ khi thiên hạ ai cũng nhẵn mặt, nhớ tên anh.
Anh cu Tam chừng năm mươi tuổi, mái tóc
đã lốm đốm bạc. Có lẽ do ít cắt, cho nên tóc anh khá tốt và suôn dài, thường
ngày cứ để xõa tự nhiên như thế chứ chẳng hề chải chuốt bao giờ cả. Trên khuôn
mặt thuôn dài và xạm đen như màu tro, cái miệng anh khít rịt, hơi cong lên như
một cái móc câu nằm ngửa. Mùa nóng cũng như mùa lạnh, anh đều đi chân đất. Hai
ngón chân cái to bè choãi ra, bám chặt vào sỏi đá trên đường đi và những gò đất mấp mô trong các khu nghĩa địa. Bên dưới hàng mi sùm sụp là một đôi mắt trong
như mắt mèo, nhưng lúc nào cũng đượm một nổi buồn man mác. Thi thoảng, nếu để ý
kĩ, người ta sẽ thấy từ trong cặp đồng tử xanh lè ấy ánh lên những tia sáng ma
quái như được chiếu rọi từ một thế giới u minh, vô định nào đó. Khuôn mặt anh phớt lạnh,
rất phù hợp và ăn nhập với bầu không khí của những buổi tang ma. Thường ngày,
người ta chỉ thấy anh mặc một bộ đồ nâu, kiểu đồ giống như của các cụ già trước
kia vẫn mặc. Bên dưới cái áo có hai túi nhỏ, một túi đựng cau trầu để ăn, túi
kia để cất những đồng tiền lẻ người ta trả công cho anh.
Người ta đã quen với sự hiện diện của
anh cu Tam ở các sự kiện đám ma như là một sự hiển nhiên. Và tất nhiên, họ cũng
dành riêng cho anh một lá cờ ngũ sắc có tua viền đen, để anh sẽ cầm lá cờ ấy đi
đầu trong các đám tang. Cái vị trí tiên phong vinh dự ấy không ai tranh giành với
anh được cả. Vì xem ra cũng chẳng ai có thể xứng đáng hơn anh, người duy nhất đã
cầm cờ ở tất cả các đám ma trong vùng.
Vừa thoáng thấy cái dáng cao gầy của
anh thất thểu từ ngoài cổng đi vào, gia chủ đã phải sốt sắng chạy ra, mời mọc:
- Mời anh cu Tam vào trong đây dùng cỗ!...
Cỗ bàn ở đám ma thì rất sẵn, chẳng ai
hẹp hòi chi một miệng ăn cả, huống chi là với một nhân vật không thể thiếu như
anh. Cách ăn uống của anh cu Tam cũng khảnh lắm. Sau lời mời của gia chủ, anh trịnh
trọng ngồi xuống, cẩn thận lau chùi bát đũa sạch sẽ như một thủ tục không thể
thiếu của người văn minh. Rồi cũng chẳng cần khách khí gì, anh thản nhiên ngồi ăn
một cách ngon lành. Coi như đó là một cái ân sủng hiển nhiên mà mình xứng đáng được
hưởng vậy. Anh ăn chậm và rất có quy củ, chứ chẳng có vẻ gì là một kẻ phàm phu
tục tử cả. Trong lúc ăn, anh không nhìn ngang ngó dọc, cũng chẳng trò chuyện với
ai. Ăn xong, anh chuyển sang bàn khác ngồi uống nước chè xanh và nhai trầu bỏm
bẻm, tự nhiên như một người khách thành tâm đến viếng tang và chia buồn cùng với
gia chủ.
Trong các đám ma, người ta thường lựa những đứa
trẻ chừng mười hai, mười ba tuổi cầm cờ. Thành ra anh cu Tam là người cầm đầu
và chỉ huy cái đám lau nhau ấy. Đứa trẻ nào lóng ngóng, lần đầu không biết cầm cờ
đám ma như thế nào cho đúng, thì được người lớn dặn:
- Cứ nom theo anh cu Tam mà đi. Anh ấy
làm thế nào thì cứ nhất nhất mà làm theo như thế ấy. Vậy nhé!…
Và anh cu Tam, dĩ nhiên là cũng không
phụ tấm lòng của thiên hạ bao giờ cả. Lúc nào anh cũng xứng đáng là một người cầm
cờ đi đầu. Từ dáng đi cho đến động tác cầm cờ của anh, luôn toát lên một
vẻ chậm rãi và thành kính đến mức thuần thục khó tin. Đến nổi người ta phải nhận
xét, ngay cả những diễn viên được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp nhất
cũng khó mà có thể diễn xuất được tài tình hơn thế.
Thương hiệu của anh cu Tam trở nên quen
thuộc đến nỗi, đám ma nào mà vắng mặt anh thì người ta coi như kém sang và thiếu
đi vẻ long trọng. Vì vậy mà trong các đám ma, ngoài di ảnh của người quá cố đặt
trên linh cửu, thì khuôn mặt anh cu Tam là khuôn mặt quen thuộc thứ hai.
Từ nhà đi ra nghĩa địa, bao giờ đoàn
đám ma cũng dừng nghỉ nửa chừng. Vừa để cho những người đi đưa đám được nghỉ
ngơi, vừa như là một nghĩa cử lưu luyến đối với người vừa nằm xuống. Để
cho linh hồn người chết lúc này đang phiêu diêu bay lượn trên cao, một lần nữa được ngắm
nhìn mảnh đất thân yêu mà sinh thời mình đã từng sinh sống. Được nhìn thấy những
khuôn mặt thân quen, những mái nhà lô xô, những cành cây và nội cỏ đẫm sương,
những thửa ruộng xanh non phất phơ hai bên con đường đi ra nghĩa địa…; lúc này
trống vẫn đánh cầm chừng và xình xoãi vẫn kêu vang. Những người nội thân trong
những bộ độ tang trắng muốt phủ kín mặt, vẫn xúm xít vây quanh linh cữu người
chết mà khóc than và kể lể thảm thiết. Anh cu Tam dựng lá cờ xuống đất, lưng
hơi gù xuống, hai tay vẫn vịn vào cán cờ không cho nghiêng đổ, thái độ trang
nghiêm như một chiến binh quả cảm đang đánh dấu lãnh địa trên chiến trường khốc liệt.
Sau khi chôn cất người chết xong, đoàn
người đưa đám lại từ nghĩa địa thất thểu trở về, trống chiêng cũng trở nên trễ
nãi. Người ta phải dìu những con người nặng tình lưu luyến lúc này dường như đã
lả đi vì khóc thương người quá cố. Lúc này cũng là lúc mà anh cu Tam hoàn thành
nốt phận sự cao cả của mình. Anh gom tất cả những lá cờ và tập trung lại một chỗ,
sau đó ghé vai, còng lưng vác cả bó cờ đám ma về nhà. Tại đây, người ta
sẽ dúi vào tay anh một ít tiền lẻ để trả công.
Trong lúc nhận tiền, anh hơi khom
lưng và đáp bằng một giọng the thé:
- Cảm ơn ông (bà) nhé!
Rồi cũng chẳng cần đếm, cứ thế anh bỏ
tiền vào cái túi bên tay mặt của mình. Người ta cho bao nhiêu thì anh lấy bấy
nhiêu, chẳng hề làm giá hay mặc cả bao giờ hết. Nhận tiền xong, anh cu Tam ra về,
dù người ta có nằng nặc mời ở lại ăn cỗ nữa thì anh cũng nhất quyết từ chối. Sau
khi chào chủ nhà, anh quay đầu lặng lẽ bước đi, không ồn ào, và cũng chẳng làm
phiền đến bất cứ ai cả. Cứ như thế, bao giờ anh cũng là một con người làm việc
đầy trách nhiệm và tự trọng.
Anh cu Tam ít khi nói chuyện hay tâm
sự với ai. Vì vậy mà xung quanh con người anh, ngày càng được bao phủ bởi một
màn sương bí ẩn và đầy huyễn hoặc. Người ta nói anh là người của cõi âm, được
các linh hồn phái lên dương thế để làm việc hiếu cho những người chết.
Sở dĩ như thế là vì thi thoảng vào những
buổi tối, trong ánh lân tinh của lũ ma trơi đang chập chờn bay lượn, có người bắt gặp
anh cu Tam đang một mình đi đi lại lại giữa các ngôi mộ ngoài nghĩa địa, miệng lầm
rầm những câu gì đó không rõ nghĩa. Điều đó càng củng cố thêm một niềm tin, rằng
anh là người của cõi âm. Có thể thì anh mới ở ngoài nghĩa địa một mình giữa đêm
hôm như thế mà không sợ ma chứ, vả lại anh còn có thể trò chuyện được với các
linh hồn người chết nữa. Có người còn quả quyết rằng:
- Anh cu Tam đúng là người cõi âm đấy
nhé. Tôi để ý trong lúc anh ta đi, chẳng bao giờ phát ra một tiếng động nào cả,
cho dù là một âm thanh nhỏ nhất!...
Cũng chính vì tin như thế, cho nên
không ai dám đối xử tệ với anh cu Tam cả, vì họ sợ nếu lỡ xúc phạm, anh sẽ xui
khiến người cõi âm làm hại thì khốn. Nhưng cũng vì thế mà người ta sợ sệt và
luôn giữ khoảng cách với anh.
Mặc cho miệng đời muốn thêu dệt ra
sao cũng được, anh cu Tam vẫn cứ lặng thinh. Chẳng bao giờ anh để ý xem người
ta bàn tán hay nói gì về mình, và anh cũng chẳng hề giải thích lấy một lời.
Trong suốt cuộc đời làm nghề cầm cờ
đám ma của mình, anh cu Tam đã quen với những tiếng khóc thê lương, với tiếng
trống, tiếng kèn đám ma não nề, ai oán. Tất cả những âm thanh buồn khổ ấy không
hề làm anh mảy may động lòng. Nét mặt anh vẫn lạnh tanh, ánh mắt vẫn hướng về
cõi xa xăm một cách bí ẩn. Cứ như thể anh là người nắm giữ thiên cơ, có thể nhìn
thấy các linh hồn sau khi chết sẽ đi đâu, về đâu vậy. Vì thế mà anh không buồn,
không khổ, không đau thương như những con người tội nghiệp trong cõi phàm trần
kia. Cả đời anh cu Tam chỉ sống bằng nghề cầm cờ đám ma, cứ như tạo hóa sinh ra
anh là chỉ để thực thi cái sứ mệnh thiêng liêng ấy vậy.
Anh cu Tam không lấy vợ, cũng chẳng có
con. Quanh năm anh chỉ thui thủi một mình trong ngôi nhà ngói dột nát cuối làng
phía ngoài cánh đồng. Quanh nhà cây cối và cỏ dại mọc um tùm, nom như một ngôi
miếu hoang không người hương khói và vì dãi dề mưa gió. Trong ngôi nhà ấy, chẳng
có đồ đạc hay tài sản gì cả, ngoài cái giường để nằm và một cái bàn gỗ xộc xệch.
Mọi thứ từ trong ra ngoài, tất cả đều toát lên một vẻ hoang tàn, tạm bợ. Những lúc
chập tối, khi ánh hoàng hôn đỏ ối dần buông về phía chân trời, người ta hay thấy
anh cu Tam ngồi trước thềm nhà và nhìn ra cánh đồng trước mặt, miệng rì rầm như
đang tụng kinh. Họ cho rằng, đó là thời khắc mà anh đang kết nối với người cõi âm, giống như các phù thủy vẫn thường liên lạc với linh hồn quỷ dữ vậy. Họ còn nói, sở dĩ anh có thể biết được chỗ nào có người chết để đến là vì các linh
hồn người chết đã báo cho anh biết trước như thế.
Lắm lúc, đang đi trên đường thì anh
cu Tam bị bọn trẻ bám theo và trêu:
- Lêu!...Lêu!...Anh cu Tam cầm cờ đám
ma…
Kệ, anh cứ lầm lũi đi, mặc cho lũ trẻ
nghịch ngợm cứ ra rả như ve sầu mùa hạ bên tai. Làm nghề gì cũng cao quý cả, miễn
là lương thiện, miễn không làm việc ác. Có thể người ta coi thường cái nghề của
anh, nhưng bản thân anh thì chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ vì điều đó. Anh cũng
không coi cái công việc cầm cờ đám ma của mình là một nghề hèn mạt. Bọn trẻ
trêu chán thì dừng lại, để mặc cho anh cu Tam một mình lầm lũi đi trên đường
làng với cái dáng người hơi còng, đầu lao về phía trước, hai bàn tay ngoắc ngoắc
ra sau. Không cứ gì lũ trẻ, mà bất cứ những nơi nào anh đến, hầu như người ta đều
nhận ra anh vì quen mặt. Ở góc độ nào đó, anh cu Tam cũng là một người nổi tiếng.
Năm tháng qua đi, nhưng anh cu Tam
thì vẫn vậy, không vui cũng chẳng buồn, và dường như cũng chẳng già đi thêm chút nào cả. Anh như một người
không có tuổi, vẫn có mặt ở bất cứ đám ma nào trong huyện để tiễn đưa những
linh hồn người chết về với cõi vĩnh hằng. Chẳng ai quan tâm là anh cu Tam còn
trẻ hay già. Vì cho dù anh có bao nhiêu tuổi đi nữa, người ta vẫn cứ quen gọi
anh là anh cu Tam như thủa nào.
Rỗi bẵng đi một thời gian, người ta
không còn thấy bóng dáng anh cu Tam xuất hiện ở các đám ma nữa.
Anh cu Tam giờ đây đã già, không còn đủ
sức để bôn tẩu ngược xuôi như thời hoàng kim trước kia được nữa. Anh chỉ quẩn quanh
ở nhà, đi đi lại lại trước thềm như một cái bóng. Người anh chỉ còn da bọc
xương, như một cái cây khô đã trút hết nhựa sống cho đời. Đôi chân vạn dặm ngày
nào vẫn đi khắp nẻo để cầm cờ đám ma, bây giờ khẳng khiu và teo tóp như hai ống
sậy già nua. Tóc tai anh bù xù như rong rêu rũ xuống, cái dáng đi vốn đã lòng khòng
nay càng cúi xuống thấp hơn. Chẳng ai chống lại được thời gian, ngay cả đối với
anh cu Tam cũng vậy. Cái con người tưởng chừng là nửa thần nửa quỷ và có thể
trường sinh bất tử ấy, giờ đây cuối cùng cũng phải đầu hàng thần chết,
để mặc cho quy luật sinh diệt xoay vần.
Nghe nói anh cu Tam bị ốm nặng, cứ như
thế được mấy hôm thì mất. Cây Nhãn trước nhà anh quanh năm xanh tốt, giờ đây đột
nhiên trút hết lá, chỉ còn trơ lại những cành đen đúa, khẳng khiu, y như một
người bị chết đứng vì bị sét đánh vậy. Giữa trời quang mây tạnh, bất chợt trút
xuống một cơn mưa rào xối xả, gió thổi rạp và xô đổ nhiều cây cối trong vùng. Khi
ấy, phía trên ngôi nhà của anh cu Tam, những đám mây đen đủ mọi hình thù kỳ
quái cứ vần vũ trong tiếng sấm ì ùng như quỷ khóc thần sầu. Đến khi ngớt mưa,
những đám mây đó cũng đột nhiên biến mất như chưa từng bao giờ hiện diện vậy. Người
ta đồn rằng, sở dĩ có những hiện tượng siêu nhiên xẩy ra như thế là do các thế
lực của cõi tâm linh tạo ra để mà đón rước linh hồn của anh cu Tam về trời.
Ngày hôm sau, làng xóm góp tiền mua
cho anh cu Tam một cỗ quan tài bằng gỗ tạp để khâm liệm. Rồi ngay trong đêm ấy,
họ mang anh ra nghĩa địa chôn vội chôn vàng như để đuổi dịch, trừ tà. Chẳng có
ai đi đưa đám, cũng chẳng kèn trống, cờ quạt gì cả. Cả đời làm nghề cầm cờ đám
ma, vậy mà khi anh cu Tam chết, chẳng có lấy một ai đi cầm cờ cho anh. Một sinh
linh bé nhỏ, cô đơn và vất vưởng giữa cõi hồng trần gió bụi, cuối cùng cũng đã
được an nghỉ nơi miền cực lạc. Trong thời khắc xuất hồn, anh linh của anh cu
Tam bay vút lên cao, và từ trên cõi vô hình nhìn xuống, anh nhìn thấy cơ man
nào là những lá cờ ngũ sắc viền đen đang tung bay phấp phới, trãi dài vô tận như là những cánh rừng nguyên sinh trùng điệp, mênh mông.