Xưa nay họ Mạnh Thường vùng Yên Châu vẫn bị thiên hạ cho là lạc loài mất gốc. Điều này khiến những người trong dòng họ cay đắng và phẫn uất lắm. Trưởng tộc Mạnh Thường Đức - vẫn quen gọi là Mạnh Đức – là người phải trăn trở nhiều hơn cả, vì chính ông là đại diện cao nhất đó vậy. Mỗi lần họp làng, mấy thủ chỉ trong vùng thường chê họ Mạnh là con hoang, cầu bất cầu bơ, ăn nhờ ở đậu. Trong khi những dòng họ khác như Phạm, Lê, Hoàng, Nguyễn… thì gốc gác hẳn hoi và có công lao khai phá vùng đất này. Những lúc như vậy, trưởng tộc Mạnh Đức như bị xát muối trong lòng, chỉ muốn đất dưới chân tự dưng nứt toác ra để mà độn thổ đi cho rồi. Nhưng rồi ông cố nhịn nhục, vì ngẫm ra thì người ta nói cũng phải. Họ hàng mình đông đúc như ngày hôm nay, cũng phải có tổ tiên nguồn cội chứ, vì rằng:
Cây có
gốc mới nẩy cành xanh ngọn
Nước
có nguồn mới bể rộng sông sâu.
Rồi ông quyết bạch hóa vấn đề gốc gác để mà thuyết phục thiên hạ, đồng
thời hóa giải tiếng oan cho dòng họ mình.
Để phản bác lại dư luận cay nghiệt, ông cho rằng tổ tiên xa xưa của mình
ở bên Trung Quốc, là Man Vương Mạnh Hoạch, người đã bảy lần giao chiến với
Khổng Minh thừa tướng. Gần hơn nữa, thì tổ tiên mười tám đời của họ Mạnh là
Quận Công Mạnh Thường Quân. Nghe ông nói vậy, người ta chỉ bịt miệng cười chế
nhạo, cho rằng bịa đặt, thấy người sang thì bắt quàng làm họ.
Về nhà, trưởng tộc Mạnh Đức lần giở cuốn gia phả: “…Khoảng bốn
trăm năm trước, ông tổ Mạnh Thường Quân vốn quê ở mạn tỉnh Thanh, vì thời loạn
mà lưu lạc đến Yên Châu, rồi lấy vợ sinh con ở đó. Sau ông đi đánh giặc, do có
nhiều công trạng với nước mà được phong làm quận công, nhưng từ đó không trở
lại vùng Yên Châu nữa…”. Gia phả thì ghi như vậy, tuy có huy hoàng thật
nhưng dù sao cũng chỉ là truyền thuyết mơ hồ, nên không được thuyết phục
cho lắm. Mặc dù bây giờ họ Mạnh Thường cũng có nhiều người giàu có phát đạt,
nhưng đường học hành thì lại dấm dớ, chẳng có nổi một bằng cử nhân tiến sĩ nào
với người ta. Đó cũng là một động lực nữa khiến trưởng tộc Mạnh Đức quyết lên
đường đi tìm họ đại tôn của mình, mà lần này phải là người bằng xương bằng thịt
hẳn hoi, có địa chỉ rõ ràng. Để chứng tỏ dòng họ mình vốn vẻ vang, trí tuệ, chứ
không phải dốt nát lang thang như người ta vẫn miệt thị. Như thế thì mới ăn nói
với người ta được, vì danh có chính thì ngôn mới thuận mà. Suy đi nghĩ lại mãi,
cuối cùng ông chọn đứa cháu họ đi cùng để đỡ đần mình trên đường. Anh này tên
là Mạnh Trí, vốn thường đến đây giúp ông lo dọn dẹp nhà thờ. Thực lòng mà nói,
bố mẹ đặt tên là Mạnh Trí nhưng trí chẳng mạnh chút nào, ở nhà anh chàng thường
xuyên bị vợ rầy la vì chậm hiểu và vô dụng. Chỉ vì thương nó hiền lành mà ông
tận tình chỉ bảo, rồi hai bác cháu quấn quýt như thầy trò từ lúc nào không hay.
Tuy Mạnh Trí tối dạ, có gì nói nấy, nhưng được cái cần mẫn siêng năng, vả lại
đó cũng là một đức tính tốt vậy.
Buổi tối hôm ấy, tại nhà trưởng tộc Mạnh Đức, họ hàng đều tập trung
đông đủ để bàn chuyện hai thầy trò lên đường. Bữa cơm thân mật, mọi người ăn
uống và bàn bạc rôm rả, ai cũng thể hiện quyết tâm sắt đá phải tìm được gốc gác
ngọn ngành mới thôi.
Sau khi xơi vài chén rượu nhạt, một cao niên đứng dậy, kính cẩn chắp tay
nói:
- Chúng tôi phiền ông trưởng tộc và anh Mạnh Trí lần này đi cho một chuyến.
Việc hệ trọng này phi ông đi thì không xong. Cả họ này biết ơn ông lắm lắm! Về phần chi phí
của hai thầy trò, mọi người xin được lo hết!…
Tiếng ồn ào rộ lên tán thưởng, rồi mỗi người một ít, ai cũng đóng góp
tiền bạc cho chuyến du hành sắp tới. Với số tiền gom được, họ tin tưởng rằng
hai thầy trò sẽ không phải thiếu thốn một thứ gì trong suốt cả chuyến đi này. Bấy
giờ trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, cho thấy vẻ trang nghiêm hệ trọng. Xúc
động trước tình cảm của họ hàng, hai thầy trò đến thắp hương trước bàn thờ họ,
rồi cùng quỳ xuống mà khấn rằng:
- Hai thầy trò chúng con là Mạnh Đức, Mạnh Trí lần này lên đường đi tìm
họ đại tôn. Kính mong tổ tiên phù hộ cho chân cứng đá mềm, vạn sự như ý. Trước
linh vị tổ tiên, chúng con xin thề rằng: Chuyến này nếu không tìm được họ hàng
gốc gác, nhất quyết không quay trở về quê nhà nữa!
Những người có mặt lúc này hết thảy đều quỳ lạy, ai nấy hai hàng nước mắt
chứa chan.
Sau khi mọi người ra về hết, hai thầy trò Mạnh Đức lại tất bật sửa soạn
hành lý để ngày mai còn lên đường. Đồ đạc được xếp đầy hai túi xách nặng, sẽ do
học trò đảm trách mang vác. Còn thầy thì chỉ mang một cái túi vải nhẹ, trong đó
có hai vật bất li thân là cuốn gia phả và sổ ghi chép. Trước khi đi nghỉ,
ông trưởng tộc còn cẩn thận chong đèn để xem lại gia phả một lần nữa. Về địa
danh dòng họ, gia phả chỉ ghi mấy dòng mơ hồ: “Thiên Ứng. Thanh Hoa. Tộc Mạnh
Thường”. Ông luận rằng, Thiên Ứng là địa phương nơi phát tích,
còn Thanh Hoa là tên tỉnh vậy.
Sáng hôm sau, khi cảnh vật còn chìm trong hơi sương, hai thầy trò đã tay
xách nách mang lên đường. Hai cái bóng một già một trẻ, thầy thì đã ngoài sáu
mươi xuân, trò mới ngoài ba mươi, cùng bước bên nhau trên con đường làng khấp
khểnh. Họ đi mãi miết, vì từ đây đến tỉnh Thanh cũng phải mất mấy trăm cây số
đường quốc lộ nữa.
o0o
Xe ô tô chạy gần một ngày đường mới đến được bến xe tỉnh Thanh. Tại đây
hai thầy trò lại phải bắt xe khách để đến vùng Thiên Ứng. Chạy được khoảng vài
chục cây số, xe khách đỗ lại mà thả họ xuống bên vệ đường. Hai thầy trò Mạnh
Đức lúc này đứng bơ vơ lạc lõng giữa một vùng núi non xanh thẳm. Người ta nói
“Sẩy nhà ra thất nghiệp”, quả là không sai vậy. Nơi này không có ai quen biết,
lại lạ người lạ cảnh, họ cảm thấy lo lắng vô cùng. Sau lúc bối rối, thầy Mạnh
Đức bèn tiến đến chỗ mấy người đang ngồi túm tụm bán hàng gần đó mà hỏi thăm. Đám
người nói cho ông biết, Thiên Ứng là tên một ngôi làng ở trên núi, còn cách đây
độ mươi cây số đường rừng nữa. Rồi họ lại chỉ một anh xe ôm đứng bên kia đường
mà nói với thầy Mạnh Đức:
- Hỏi anh xe ôm kia. Anh ta sẽ đưa hai người đến nơi!
Ông trưởng tộc mừng quýnh, vội cảm ơn mọi người rồi vẫy xe. Sau khi
chất đồ đạc lên chiếc xe cũ kỹ, anh xe ôm chở hai thầy trò lên đường. Con đường
núi gập ghềnh khiến chiếc xe cứ nhảy lên chồm hỗm, giống như là một con ngựa
bất kham vậy.
Đến một con dốc thì chiếc xe dừng lại. Từ đây có thể nhìn thấy một
ngôi làng trên đỉnh đồi cách đó không xa. Người lái xe ôm nheo mắt chỉ tay về
hướng ngôi làng:
- Trong đó là Thôn Thiên Ứng. Hai người đi bộ vài cây số nữa thì vào đến
nơi. Từ đây đường nhỏ khó đi, xe máy không chạy được nữa.
Thầy Mạnh Đức lịch sự cảm ơn rồi lấy tiền ra thanh toán. Anh xe ôm
cũng chào từ biệt họ rồi nổ máy mà quay xe trở ra.
Hai thầy trò ái ngại nhìn nhau, rồi cùng dắt díu mà men theo lối mòn đi
lên núi. Vì đường dốc, nên họ đi mãi mà vẫn chưa lên đến nơi. Vốn không quen
đường đèo, tay lại phải xách hai túi hành lý nặng, Mạnh Trí bước đi ì ạch như
chân có đeo chì vậy. Vừa thở hổn hển, anh chàng vừa háo hức hỏi thầy để cho
quên đi nổi mệt nhọc:
- Dòng họ ta huy hoàng như vậy… chắc là nhà thờ to đẹp… lộng lẫy lắm thầy
nhỉ? Đến đó thầy trò mình …kiểu gì cũng được tiếp đón tử tế và tha hồ mà đánh
chén no say!…
Nói rồi anh chàng nhắm mắt mà tưởng tượng đến giây phút thần tiên, cho bõ
cả ngày trời lặn lội vất vả. Về phần mình, thầy Mạnh Đức chỉ lẳng lặng bước đi
mà không nói gì.
Vùng này vốn là miền trung du, đồi núi chập chùng. Thi thoảng mới thấy bóng một vài người mặc bộ đồ dân tộc với cái gùi trên lưng mà đi làm qua. Hai thầy
trò đi đến lưng chừng ngọn đồi thì mệt quá mà dừng chân nghỉ tạm dưới một gốc
cây cổ thụ. Chợt có tiếng leng keng phát ra đâu đó nghe vui tai. Mạnh Trí ngạc
nhiên đưa mắt quan sát xung quanh, nhưng anh chẳng thấy gì cả. Cái âm thanh kia
thì vẫn cứ vang lên đều đều, khi gần khi xa, như là có ma quỷ vậy. Chú ngơ ngác
quay sang hỏi thầy lúc này đang ngồi tựa lưng vào gốc cây:
- Tiếng gì leng keng trên đồi vậy thầy nhỉ?
Thấy trò hỏi vậy, thầy Mạnh Đức ôn tồn giảng giải:
-
Đó là tiếng lục lạc của trâu bò đó con!
- Sao trâu bò mà lại phải đeo lục lạc hả thầy?
- Ở đây toàn là đồi núi, cây cối rậm rì, người ta đeo vào cổ bò hoặc trâu
cái lục lạc bằng đồng để cho nó khỏi bị lạc con ạ. Như vậy cũng không phải
trông chừng nữa. Đến cuối ngày, người ta chỉ việc lần theo tiếng lục lạc, rồi
đến đó mà lùa trâu bò về thôi.
Mạnh Trí gật gù ra chiều đã hiểu rồi nhìn lên đồi cao. Quả là lấp ló sau
những lùm cây, có mấy chú trâu đang thong dong gặm cỏ trên đó. Đây là lần đầu
tiên trong đời chú khám phá ra cái điều mới lạ này. Vì nó khác với miền đồng
bằng quê chú, nơi mà trâu bò chẳng bao giờ phải đeo lục lạc vào cổ cả.
Đoán chừng thầy cũng đã đói bụng, Mạnh Trí mới lần mở túi xách, lấy lương
khô và nước uống ra để mời. Rồi hai thầy trò vừa ngồi thưởng thức món lương khô
vừa say sưa ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Lúc này bức tranh sơn thủy hiện ra
trước mắt thật đẹp và hữu tình. Núi đồi nhấp nhô, một cây cầu gỗ xinh xinh bắc
qua con suối, bên dưới là dòng nước trong xanh chảy tuôn róc rách. Hai bên bờ
suối, muôn hoa đua nhau khoe sắc như trong xứ sở thần tiên. Xa xa, những đám
khói do người đi làm nương đốt bay lơ lửng trong ánh chiều tà.
Đang mãi mê ngắm nhìn, chợt họ nghe thấy tiếng hát véo von cất lên đâu
đó. Nhìn ra thì thấy phía trước có một mục đồng đang cưỡi trâu, thong dong đi
tới mà hát rằng:
Non
xanh nước biếc dạt dào
Cõi
trần ai biết nơi nao là nhà
Tìm
trong trời đất bao la
Tổ
tiên nguồn cội ông cha sinh thành.
Thầy Mạnh Đức giật nảy mình, vì lời bài hát phù hợp với hoàn cảnh của hai
thầy trò lúc này quá, như có ẩn chứa cả lời tiên tri vậy. Tò mò, ông liền vẫy
đứa trẻ lại gần mà hỏi thăm. Đứa bé lễ phép trả lời rằng đây là bài hát do ông
nội nó sáng tác. Thầy Mạnh Đức đang toan hỏi nữa thì đứa bé đã đưa tay chỉ:
- Ông nội cháu kìa!..
Theo tay mục đồng, hai thầy trò trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ,
trên vai vác cái cuốc như thể là đi làm đồng về.
Khi cụ già vừa tới nơi, thầy Mạnh Đức lễ phép chào:
-
Chào cụ! Vừa rồi tôi có được nghe bài hát của cụ. Lời lẽ, giai điệu rất hay và phù
hợp với tâm trạng chúng tôi lúc này. Vì vậy mà tự dưng xúc cảm, muốn được bày
tỏ lòng ngưỡng mộ!...
Cụ già nở một nụ cười hiền hậu, rồi ôn tồn hỏi:
- Chẳng hay ông là ai? Từ đâu đến đây?...
Ông trưởng tộc ưỡn ngực:
- Mạnh Đức, cháu mười tám đời Quận Công Mạnh Thường Quân. Vốn là dòng dõi
Man Vương Mạnh Hoạch khi xưa.
Cụ già gật đầu ra chiều đã hiểu. Lúc này thầy Mạnh Đức liền thuật lại
chuyện đi tìm họ, và có ý nhờ cụ chỉ đường cho.
Cụ già ái ngại nhìn hai thầy trò:
- Bây giờ trời cũng đã xế chiều rồi, ở đây lại không có quán xá hay nhà
trọ gì cả. Vậy mời hai người về nhà tôi nghỉ ngơi một đêm rồi sáng mai lại xuất
hành cũng chưa muộn!
Đang lúc hoang mang nơi rừng núi, may lại gặp được ông lão tốt bụng như
thế này, hai thầy trò cả mừng, cho rằng tổ tiên đã phù hộ mà đưa đường chỉ lối.
Vì vậy họ vui vẻ nhận lời ngay tắp lự mà không chút khách sáo gì cả.
Theo chân ông lão, thầy trò Mạnh Đức đi men theo một lối mòn quanh
co, hai bên được trồng toàn những cây bạch đàn, rồi lại qua hai cái ao cá nữa
thì về đến nhà. Trước mắt họ hiện ra một ngôi nhà gỗ ba gian giản dị nhưng nom sạch
sẽ và tươm tất. Ông lão giới thiệu hai thầy trò với bà lão cùng vợ chồng anh
con trai. Sau màn chào hỏi, ông sai người nhà đi làm cơm để thết đãi khách.
Sau bữa cơm tối, ông lão và hai thầy trò cùng ngồi chỗ chiếc bàn ở gian
ngoài để uống nước. Trò chuyện một lúc, thầy Mạnh Đức có ý sốt ruột mà quay
sang hỏi chuyện họ hàng. Sau khi nghe ông trình bày tường tận mục đích của
chuyến đi, cụ già vuốt chòm râu bạc, trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Theo như tôi được biết, vùng này có đến ba nơi có nhà thờ họ Mạnh!…
Thầy Mạnh Đức chắp tay kính cẩn:
- Xin cụ chỉ dẫn tường tận thêm!...
Nói rồi ông mở cái túi vải vẫn mang theo bên mình, lấy cuốn sổ và cây bút
ra để mà ghi chép.
Cụ già chậm rãi:
- Nếu tôi nhớ không nhầm thì có một nhà thờ ở Thiên Quan, cách đây khoảng
tám mươi cây số. Nhà thờ khác ở Thiên Xuân, cách đây cũng độ sáu mươi cây số.
Còn một nơi nữa tôi không nhớ rõ địa danh, nhưng lúc đó ông có thể hỏi sau…
Thầy Mạnh Đức cẩn thận ghi chép tỉ mỉ những lời của ông cụ với một vẻ
biết ơn và cảm kích. Lúc này Mạnh Trí vẫn ngồi bên cạnh hầu trà hai người, nghe
nói đến dòng họ mình, chú liền mau miệng nói với ông lão:
- Dòng họ chúng tôi thuộc hàng danh giá và có gốc gác hẳn hoi, không phải
loại con hoang cù bơ cù bất như người ta vẫn thường nói đâu!…
Nghe trò nói vậy, thầy Mạnh Đức liền đưa mắt lườm cho anh ta một cái.
Mạnh Trí sợ thầy, vội đưa tay bịt miệng mà không dám nói thêm câu nào nữa.
Thầy Mạnh Đức cười xòa, rồi hướng về phía ông lão chữa thẹn:
- Mong cụ đừng chấp nhặt làm gì! Đứa học trò tôi ngu si đần độn, toàn nói
những chuyện không ăn nhập vào đâu cả.
Anh chàng Mạnh Trí bị thầy mắng đã thấy thẹn, lại cả ngày đi đường mệt
mỏi nên xin phép được lên giường đi nằm trước. Giường ngủ được kê sát bức vách,
chỉ cách chỗ hai người đang ngồi có vài bước chân, vì vậy mà Mạnh Trí vẫn nghe
được tiếng họ nói chuyện.
Lúc này ông lão đang kể chuyện cho thầy của anh nghe, giọng đều đều, chậm
rãi:
“…Anh biết không? Vùng đất này là do tổ tiên chúng tôi khai phá cách nay
đã lâu, kể cũng hơn vài trăm năm rồi. Nửa thế kỷ về trước, khi ấy tôi còn
là một cậu thanh niên trẻ khỏe, nhiều đêm thức trắng cùng dân làng để rình cọp
vào làng bắt lợn, bắt nghé. Lúc đó vùng này còn hoang vu lắm, cây cối rậm rì, ở
trong nhà cũng có thể nghe được tiếng tắc kè kêu, tiếng con chồn đào hang…
Lần đó có một cô gái xinh đẹp trong làng đi làm nương rồi bị ma núi ám,
vì con ma này vốn ưa thích cái sắc đẹp của cô. Dân làng phải nhờ thầy mo cúng
mấy ngày mà con ma vẫn không chịu đi…”
Mạnh trí nghe kể đến đây, phần thì mệt phần vì sợ ma nên ngủ thiếp
đi lúc nào không hay. Trong giấc ngủ, chú mơ thấy hai thầy trò đã tìm được họ
và trở về quê, có cả biển người chào đón và tung hô vang dội. Chú còn thấy mình
được người ta công kênh trên vai như một người anh hùng vậy.
o0o
Bị tiếng chim râm ran trên đồi đánh thức, thầy Mạnh Đức vươn vai tỉnh dậy
mà nhìn ra bên ngoài. Trời đã sáng rõ, những tia nắng mặt trời đầu tiên chiếu
qua kẽ lá lung linh. Thật là một buổi sáng trong lành nơi núi non hùng vĩ. Nhìn
đồng hồ, thấy đã hơn năm giờ, thầy vội lay chàng Mạnh Trí lúc này đang nằm ngáy
ngon lành. Bị đánh thức giữa chừng, Mạnh Trí ú ớ một lúc rồi mới ngồi dậy dụi
mắt, miệng vẫn chưa ngớt cằn nhằn vì cứ nghĩ là đang ở nhà mình. Thầy Mạnh Đức nhìn
chú, âu yếm:
- Dậy rửa mặt cho tỉnh đi con, rồi thầy trò mình chuẩn bị lên đường!
Lúc này Mạnh Trí mới tỉnh hẳn. Nhớ tới nhiệm vụ của mình, anh chàng
ngượng ngùng mà vội vàng đi rửa mặt.
Sau khi cảm tạ và chào từ biệt gia chủ, hai thầy trò tiếp tục lên đường.
Về phần ông lão thì dẫn cả nhà ra đứng ở trước cổng mà bịn rịn đưa tiễn.
Thầy Mạnh Đức quyết định tìm đến Thiên Xuân trước, rồi sau đó mới đi
Thiên Quan. Từ nơi đồi núi cây cối che khuất tầm nhìn, giờ đây đồng bằng lại trãi
rộng ra trước mắt họ với những đồng ruộng bao la. Như lời ông lão nói, hai thầy
trò đi xe khách khoảng hơn sáu mươi cây số thì đến được Thiên Xuân. Nơi đây là
một thị trấn buôn bán sầm uất, nhà cửa san sát với nhau. Khi đến nơi thì trời
đã gần trưa, hai thầy trò quyết định tìm thuê một phòng trọ để ở rồi mới tìm
hiểu mọi chuyện sau. Ở đây tuy người đông đúc, nhưng toàn là dân tứ xứ nên ít
người biết đến chuyện họ hàng. Nhưng rồi họ cũng lần được manh mối, người ta
cho biết gần đây có một ngôi làng gọi là Thiên Xuân. Cũng may từ đây đến đó
không xa lắm, nên hai thầy trò quyết định đi bộ. Vất vả hỏi đường một lúc, rồi
họ cũng đến được nơi cần tìm. Khi hỏi thăm về dòng họ Mạnh, có một người trong
làng mách dùm rằng:
- Ở đây có họ Mạnh Đình. Ông đi theo lối này, rẽ phải khoảng trăm mét thì
nhìn thấy nhà thờ!
Hai thầy trò làm theo hướng dẫn của người nọ, đi đến nơi thì thấy trước
mắt hiện ra một ngôi nhà thờ, bên trên có ghi: “Tộc Mạnh Đình”. Tuy hơi thất
vọng vì không phải họ Mạnh Thường, nhưng thầy Mạnh Đức nghĩ rằng: “Dù
sao đây cũng là họ Mạnh, may ra có thể dò được manh mối chăng?”. Nhà thờ
lúc này vắng hoe, chỉ thấy một người đàn ông đang ngồi trên thềm mà chống cằm
suy tư, trông giống như là triết gia vậy. Thầy Mạnh Đức cả mừng, vội bước đến
kính cẩn:
- Xin chào ngài!
Người kia vẫn ngồi tư lự mà không trả lời. Cho rằng những bậc bề trên có
kiến thức cao thâm vẫn thường như vậy, thầy Mạnh Đức tiếp tục giới thiệu:
- Mạnh Đức, cháu mười tám đời Quận Công Mạnh Thường Quân. Vốn là dòng dõi
Man Vương Mạnh Hoạch khi xưa.
Chợt người kia cười lên sằng sặc, rồi vùng đứng dậy mà vớ luôn hòn đá to
bằng nắm tay dưới đất toan ném. Lúc này mới biết đó là một kẻ tâm thần, thầy
Mạnh Đức vội co giò chạy thục mạng. Người điên kia cũng cầm hòn đá để đuổi theo
phía sau. Thấy thầy chạy như ma đuổi, Mạnh Trí cũng hốt hoảng mà ba chân bốn
cẳng quay đầu chạy theo. Vừa lúc đó người điên ném một cái vù, hòn đá bay sượt
qua mang tai Mạnh Trí rồi rớt tõm xuống cái ao bèo gần đó.
Hai thầy trò chạy được một quãng khá xa, cảm thấy đã an toàn vì không còn
nghe tiếng bước chân đuổi đằng sau nữa, liền dừng lại để nghỉ. Khi đã hoàn hồn,
bất ngờ thầy Mạnh Đức sờ tay lên vai, rồi dậm chân mà hốt hoảng:
- Thôi hỏng! Thầy đánh rơi mất cái túi đựng gia phả rồi. Làm sao bây giờ
đây hở trời?...
Nghe thầy nói vậy, Mạnh Trí cũng hoảng hồn, vì gia phả và cuốn sổ vốn là
linh hồn chuyến đi của hai thầy trò. Nếu đánh mất nó thì chỉ có nước quay về
nhà mà thôi. Cho dù thế nào thì bây giờ cũng phải liều mình mà quay lại để tìm.
Nhưng mà nhỡ gặp kẻ tâm thần kia thì sao?
Tuy có hơi phần lo sợ, nhưng Mạnh Trí vẫn quả quyết:
- Thầy để con quay lại tìm!...
Biết rằng việc đối mặt với kẻ tâm thần kia là rất nguy hiểm, nhưng tình
thế không thể nào khác, thầy Mạnh Đức đành phải để cho học trò của mình quay
lại, sau khi dặn dò là phải hết sức cẩn thận.
Thế rồi Mạnh Trí tất tả quay lại phía sau, đi được một đoạn thì thấy
người điên kia vẫn đứng chỗ bờ ao mà ngó nghiêng ở đó. Anh vội nấp vào một gốc
cây to bên đường để quan sát. May quá! Mạnh Trí nhìn thấy cái túi vải của thầy
nằm bên mép đường kia, chỉ cách chỗ anh đang nấp có mấy bước chân mà thôi.
Nhưng ngặt nổi là kẻ điên kia vẫn đứng đó, hắn vừa nói lảm nhảm vừa cầm cái
cành cây mà quất xuống mặt đường đen đét. Lúc này Mạnh Trí tim đập thình thịch,
chàng không dám thở mạnh vì chỉ sợ kẻ kia nghe thấy. Chừng phải mươi phút sau
thì người điên kia mới chịu bỏ đi. Chờ cho hắn đi một quãng khá xa, Mạnh Trí
mới dám lẹ làng trườn tới để mà nhặt lấy cái túi vải. Rồi anh co giò chạy một
mạch đến chỗ thầy mình đang đứng đợi mà không dám ngoái đầu nhìn lại nữa. Tìm
lại được cái túi, hai thầy trò mừng rỡ, vội vàng cùng nhau quay trở lại nhà trọ
ngay tức thì.
Tối hôm đó, thầy trò Mạnh Đức lại thu xếp hành lý để mà chuẩn bị cho
chuyến đi Thiên Quan.
Thiên Quan là một ngôi làng heo hút nằm giữa đồng không mông quạnh. Hai
thầy trò Mạnh Đức tìm được đến đây vào một buổi sáng đẹp trời. Con đường đất
ngoằn ngoèo dài độ ba cây số là lối đi duy nhất dẫn vào làng. Vì không tìm được
xe ôm, nên họ phải đi bộ để vào đến đây. Sau khi hỏi thăm, thì quả là trong
làng có một ngôi nhà thờ họ Mạnh thật. Khi tìm đến nơi, họ nhìn thấy một ngôi
nhà thờ khang trang, tuy nhiên khung cảnh lại đổ nát hoang tàn. Đang ngẩn ngơ
mà chưa biết hỏi han ai thì chợt lại gặp một cụ bà từ trong nhà thờ đi ra. Cụ
già cho biết đây là dòng họ Mạnh Tiến, nhưng bây giờ con cháu cũng đã bỏ làng
mà đi làm ăn xa hết. Thầy Mạnh Đức hỏi thêm về dòng họ Mạnh Thường, thì cụ già
lắc đầu mà không biết gì cả.
Thất vọng, hai thầy trò lại phải dắt díu nhau mà quay trở ra. Lúc này đã
xế trưa, trời lại đang nắng chang chang như đổ lửa. Khổ thân cho Mạnh Trí, chú
phải xách trên tay hai túi hành lý nặng, trong khi lại vừa đói vừa khát.
Chán nản vì chuyến đi không được như ý, chú phụng phịu:
- Thầy ơi! nếu chuyến này không tìm được họ thì thầy trò mình phải chết ở
đây như lời thề trước khi ra đi sao? Con nói thật, thầy bỏ quá cho! Chứ như thế
này thì chẳng khác nào là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm cả, chẳng biết manh mối
ra sao, có kết quả hay là không nữa. Lần trước gặp kẻ điên, nếu con không nhanh
chân chạy thoát, hòn đá kia mà trúng vào đầu thì có lẽ đã về chầu tổ tiên rồi
cũng nên, chẳng cần phải đi tìm làm gì nữa đâu!…
Thấy thầy vẫn im lặng mà lầm lũi bước đi, chú lại sụt sùi:
- Dù sao con cũng không muốn thầy trò mình phải chết ở nơi đồng không
mông quạnh này. Biết trước thế thì đừng có đi chuyến này còn hơn. Đang yên đang
lành lại bày ra chuyện đi tìm họ. Con người ta sinh ra ai chẳng có tổ tiên
nguồn cội, không cần chứng minh thì người ta cũng đã biết mà. Con người chứ có
phải là Tôn Hành Giả đâu mà tự dưng nứt ra từ hòn đá?…
Nghe trò nói vậy, thầy Mạnh Đức giận dữ quát lên:
- Có câm mồm ngay đi không hở đồ ngu kia! Cứ mở mồm ra là toàn nói gở,
làm hỏng đại sự không à! Nhà ngươi nói thế mà không sợ tổ tiên trách phạt ư?
Ngươi có biết đây là công trạng ngàn năm một thủa không? Hãy thử hình dung: Sẽ
như thế nào nếu thầy trò ta tìm ra được mộ tổ và họ hàng? Muôn năm sau con cháu
họ Mạnh Thường vẫn biết ơn và ghi nhớ sự kiện lẫy lừng này mà lập bia đá khắc
ghi. Nhà ngươi hiểu không? Chính vì thế mà dù có phải bỏ mạng nơi đồng không
mông quạnh hay núi đồi hoang vu, dù có da ngựa bọc thây ta cũng cam lòng. Ta
thề nếu không tìm được tổ tiên, quyết không trở về quê cũ nữa!...
Thấy thầy đã quyết tâm như vậy, Mạnh Trí cũng im lặng mà không dám nói
thêm gì nữa. Thực lòng chú chỉ muốn nhanh chóng tìm được họ để mà kết thúc
chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm này, chứ chẳng mong bảng vàng bia đá ghi công gì
cả.
o0o
Thấm thoắt hai thầy trò Mạnh Đức đã ra đi được hơn tuần lễ. Có trời đất
chứng giám cho lòng thành của họ, khi thì ngủ nhờ ở nhà dân, lúc tạm bợ nơi
quán trọ bên đường. Trèo lên núi cao, bước xuống đồng bằng, đâu đâu cũng in dấu
chân của hai thầy trò cả. Cũng vì tấm lòng hướng về nguồn cội, mà nhiều khi họ
phải chịu cảnh đói khát trên đường, đối mặt với muôn vàn hiểm nguy cực khổ.
Đã bước sang ngày thứ chín, hôm ấy hai thầy trò vừa đi bộ lang thang trên
đường vừa dò hỏi về ngôi nhà thờ thứ ba như cụ già trên núi đã nói. Gặp ai họ
cũng hỏi thăm, nhưng chẳng có ai biết gì về dòng họ Mạnh Thường cả. Giữa lúc vô
kế khả thì thì lại gặp được một tia hy vọng mong manh. Một người bán hàng bên
đường có biết về dòng họ Mạnh Thường, đã tận tình chỉ dẫn cho hai thầy trò. Sau
khi lấy cuốn sổ ra ghi chép địa chỉ cẩn thận, thầy Mạnh Đức cảm tạ người bán
hàng rồi cùng học trò vội vàng khởi hành đến đó.
Trên đường đi, nhớ đến chuyện Mạnh Trí bàn lùi mấy hôm trước, thầy quay
lại trách:
- Nhà ngươi đã thấy chưa? Trời luôn dành phần thưởng cho người kiên
nhẫn và có tấm lòng thành. Những kẻ nóng nảy và hấp tấp như ngươi phỏng
có làm nên công trạng gì?
Thấy thầy phê phán mình, Mạnh Trí toan cự lại, nhưng nghĩ đến chuyện sắp
thành chính quả, chú lại im lặng mà vui vẻ cất bước đi theo.
Khi đến nơi, được biết là hiện nay dòng họ Mạnh Thường trong làng chỉ còn
lại một người duy nhất kế tục mà thôi. Nhanh chóng, hai thầy trò lập tức tìm
đến ngôi nhà được cho là có hậu duệ của dòng họ Mạnh Thường đang ở. Trước mắt
họ lúc này là một căn nhà ngói xiêu vẹo, trông giống như cái điếm canh đê, vì
nó vừa nhỏ vừa trống huơ trống hoác. Hai thầy trò mạnh dạn tiến vào bên trong,
ở đó họ bắt gặp một người đàn ông đang ngồi trên thềm. Người này khoảng ngoài
năm mươi tuổi, trên mình chỉ mặc độc chiếc quần đùi ngắn cũn cỡn, da dẻ thì
nhăn nheo và đen cháy y như là than vậy. Cạnh chỗ anh ta ngồi, một chiếc cần
chăn vịt được cắm xuống đất, mảnh vải xanh buộc trên ngọn phấp phới tung bay
trong gió. Dường như anh ta vừa ngồi nghỉ vừa trông chừng đàn vịt đang bơi lội
và nô đùa dưới cái ao trước mặt thì phải.
Sau phút do dự, thầy Mạnh Đức tiến lại gần và lên tiếng:
- Xin chào ngài!
Thấy có người hỏi mình, người kia nở một nụ cười bâng quơ, khoe cái miệng
sún chỉ còn lơ thơ mấy chiếc răng đen xỉn. Rồi anh ta lại ngồi im như trước mà
không nói năng gì cả.
Thầy Mạnh Đức lại tiếp lời:
- Chúng tôi đến đây để hỏi nhờ ngài một việc. Chẳng hay ngài có phải dòng
họ Mạnh Thường? Gia thế ra sao? Xin cho biết!...
Nghe hỏi vậy, người đàn ông ngẩng nhìn thầy Mạnh Đức một lúc rồi cất
giọng thều thào:
- Tôi ở đây một mình... không có vợ con gì cả. Thường ngày vẫn đi chăn
vịt... và khuân vác thuê cho người ta!…
Thầy Mạnh Đức lại sốt ruột hỏi:
- Xin ngài cho biết tên họ?...
- À! Tôi lớn lên không còn bố mẹ. Chỉ thấy người ta vẫn gọi là Mạnh
Thường Dân…
Thầy Mạnh Đức mừng quá, vội quay lại vẫy Mạnh Trí, lúc này vẫn đang đứng
từ đằng xa mà nhìn lại. Thấy thầy gọi mình, Mạnh Trí vội xách hai cái túi hành
lý mà khệ nệ đi vào. Thầy Mạnh Đức nói với học trò lấy quà bánh ra để đem biếu
chủ nhà.
Người đàn ông nhận lấy gói bánh, rồi không cần khách sáo mà bóc ra ăn
ngấu nghiến, khiến cho bột bánh dính đầy miệng và rơi vãi tung tóe.
Tuy thất vọng về hình hài và tác phong của người này, nhưng thầy Mạnh Đức
hiểu rằng đây chính là điều mà cả họ ông đang mong đợi. Và đây cũng là người mà
hai thầy trò đã cất công tìm kiếm trong suốt chuyến đi này.
Nén những tình cảm xúc động lúc này đang dâng trào, thầy Mạnh Đức kéo tay
học trò, rồi cả hai người nhất loạt quỳ xuống trước mặt người đàn ông mà sụp
lạy:
- Chúng tôi là con cháu họ Mạnh Thường, xin được tiếp kiến Đại tộc
trưởng!
Thấy sự việc lạ lùng như vậy, người kia há hốc miệng ngạc nhiên, rồi lắp
bắp:
- Đại…đại…tộc trưởng?...
Rồi Mạnh Thường Dân lại ngửa mặt lên trời mà cười khanh khách ra chiều
thích thú lắm. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời ông ta nghe đến cái tên này
vậy.
Đợi cho tiếng cười của đại tộc trưởng vừa ngớt, thầy Mạnh Đức chắp tay
kính cẩn:
- Xin đại tộc trưởng hãy đưa chúng tôi đi xem nhà thờ tiên tổ!...
Mạnh Thường Dân nghe thấy vậy, vội cho nốt miếng bánh vào mồm nhai nhồm
nhoàm rồi gật đầu đồng ý. Người chăn vịt - lúc này là đại tộc trưởng dòng họ
Mạnh Thường - đứng dậy, lấy tay phủi phủi bụi dưới đít mấy cái rồi bước đi. Hai
thầy trò Mạnh Đức thì khúm núm theo sát phía sau.
Tâm trạng Mạnh Trí lúc này phải nói là tột cùng của sự thất vọng vậy, vì
mọi việc diễn ra hoàn toàn trái ngược với những gì chú vẫn hình dung ban đầu.
Sự thể này thì chẳng những không được đón tiếp long trọng, ngay đến cỗ
bàn cũng chẳng có mà đánh chén nữa. Trong khi cái bụng đói của chú lúc này vẫn đang
réo lên sùng sục. Điều khiến chú não ruột nhất là với một “Đại tộc trưởng” như
vậy, thì hai thầy trò không thể chứng minh cho thiên hạ thấy sự huy hoàng của
dòng tộc được. Nhìn cái dáng đi thất thểu như kẻ say rượu đằng trước, chú không
nén nổi tiếng thở dài. Nghe thấy vậy, thầy Mạnh Đức liền nguýt cho chú một cái,
Mạnh Trí lại phải im lặng mà lủi thủi bước theo, lòng những chán chường ngao
ngán.
Khi đến chỗ nhà thờ, người chăn vịt lấy tay gỡ mấy cành rào chắn cổng ra, rồi
cả ba người cùng đi vào bên trong. Ngôi nhà thờ dường như đã lâu không có ai
quét dọn, bụi bẩn bám đầy khắp mọi nơi. Lúc này thầy Mạnh Đức vẫn đang cố gắng
tìm kiếm những chi tiết liên quan đến dòng họ Mạnh Thường, vì ở đây không có
gia phả hay ghi chép gì cả. Chợt ông thấy phía sau bài vị trên bàn thờ có một tấm
bảng đã bị mạng nhện và bụi thời gian che phủ. Thầy Mạnh Đức liền tiến lại gần
mà gỡ mạng nhện ra, rồi dùng tay lau cho sạch bụi. Trên tấm bảng, lúc này một
dòng chữ sơn son thếp vàng hiện ra: "Thiên Ứng. Thanh Hoa. Tộc Mạnh Thường".