Đà Sơn
vốn là một vùng đất đai trù phú, phồn thịnh quanh năm. Vùng này có ba thôn kề
nhau, nằm dọc bờ con sông Cả, rồi kéo dài đến tận đồi Mưng. Cư dân ở đây chủ
yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp và đánh cá ven sông. Đồi Mưng thoai thoải,
cây cối rậm rạp mọc lan ra cả đến bờ sông. Trên đó có một ngôi đền cổ, được xây
dựng cách nay đã hơn ba trăm năm, để thờ vị thần trấn giữ vùng này. Vì vậy mà
người ta vẫn quen gọi là đền Mưng. Gần đến đồi thì nhà cửa thưa thớt dần, phần
vì hoang vu, phần vì cái vẻ linh thiêng vốn có của khu đền.
Khoảng
những năm 1980, khi đó Đà Sơn không hiểu có nạn dịch gì mà người bị bệnh chết
rất nhiều. Xóm làng hoảng loạn, ai nấy đều lo sợ hoang mang. Số người chết toàn
là thanh niên trai tráng cả, cứ độ mười tám đôi mươi. Người ta đồn là dưới âm
phủ có chiến tranh, cho nên Diêm Vương bắt lính để nhập ngũ. Vì vậy mà nhà
nào có con trai một thì phải gửi đi ở nơi khác, đợi cho đến lúc nạn dịch qua đi
thì mới lại dám đón về.
Bấy giờ
không khí tang tóc bao trùm, cờ đám ma dựng khắp làng trên xóm dưới, tiếng khóc
cứ vang lên ai oán nỉ non. Khu nghĩa địa thấy toàn là những ngôi mộ mới đắp, cỏ
còn chưa kịp mọc. Trước tình thế khẩn thiết này, các cụ cao niên bèn tập hợp
nhau lại để bàn chuyện cứu dân vùng Đà Sơn. Họ sắm sửa lễ vật mang lên đền Mưng
cúng tế, khẩn mong thần thổ địa ra tay phù hộ cho người dân tai qua nạn khỏi.
Rồi
khi mà người ta đang hy vọng vào sự linh ứng của thánh thần thì tai nạn lại ập
đến. Thêm một thanh niên nữa trong làng, buổi trưa đi nắng về nóng quá rồi tắm,
thế rồi tự dưng lăn đùng ra ốm mà chẳng thuốc thang gì chạy chữa được. Mấy ngày
sau thì người bệnh cũng qua đời.
Chẳng có
sự trợ giúp khoa học nào, người ta tự phổ biến cho nhau những kinh nghiệm dân
gian để mà chống lại ma quỷ. Họ khuyên nhau không được tắm vào lúc giữa trưa
hay ngồi dưới bóng râm. Vì như thế sẽ bị quỷ dưới âm phủ bắt đi mất. Hoặc nửa
đêm về sáng, nếu có nghe tiếng ai đó gọi khẽ tên mình thì đừng có thưa. Nếu trả
lời thì coi như đã bị Diêm Vương gọi, hồn sẽ lìa khỏi xác. Vì thế mà mùa hè
trời nắng, đi đường dù có nóng đến mấy thì người ta cũng không dám ghé vào gốc
cây ngồi nghỉ. Buổi tối trong lúc đi ngủ, cũng sợ vô tình mà trả lời tiếng gọi
của ai đó chăng?
o0o
Có nhiều
chuyện lạ liên tiếp xẩy ra trong thời gian này, khiến cho không gian dường như
đặc quánh lại vì ma mị.
Giữa ban
ngày ban mặt, nhiều người khi đi qua gốc cây Muỗm đầu đình thì cứ nghe thấy
tiếng trẻ con cười khanh khách trên đó. Lắm người còn bị đứa trẻ ném cả quả
muỗm vào người. Cây muỗm cổ thụ, nhìn lên chẳng thấy gì ngoài cành lá rậm rì
đung đưa. Có người tinh mắt thì khẳng định rằng, lúc nhìn lên cây thì thấy có
hai đốm mắt rất sáng, giống như của con Chồn hay Cáo vậy.
Ở thôn
Tây có cụ Mẫn làm nghề đánh xe Bò, hằng ngày vẫn đi chở đất đá thuê cho người
ta. Bữa nọ khi cụ đánh xe về đến nghĩa địa thì trời đã tối mịt. Chợt cụ thấy có
một người thanh niên đang đứng ở bên lề đường để mà xin đi nhờ xe. Điều lạ lùng
là, từ khi cậu thanh niên ngồi lên thì chiếc xe bò tự nhiên nặng chịch, cứ đi
chậm như rùa.
Vừa
điều khiến cho chiếc xe lăn qua mấy cái ổ gà, cụ vừa hỏi:
- Nhà
cháu ở đâu?
- Cháu
là Trung, con Bố Thắm ở xóm Đông, nhà cháu ở cuối xóm đó! – Cậu thanh niên đáp.
Cụ gật
đầu ra chiều đã nhớ, chứ lũ trẻ con mới lớn lên sau này thì chẳng thể nào mà biết
hết được. Nhưng dường như linh tính báo có điều gì đó ngờ ngợ, cụ bèn quay lại
hỏi:
- Vậy
chứ cháu đi đâu về mà đứng ở đây một mình vậy?
- Cháu
đi lính, cụ quên rồi sao? Bữa nay nhớ nhà quá nên cháu trốn về ít hôm.
Xe đi
đến cuối khu nghĩa địa thì tự dưng nhẹ bổng như mây. Cụ Mẫn quay đầu lại toan
hỏi nữa thì đã không còn nhìn thấy cậu thanh niên kia đâu cả. Lòng những hoang
mang, cụ cứ ngồi trên xe mà bóp trán suy nghĩ mãi. Một lúc mới giật mình mà nhớ
ra rằng, cậu thanh niên lúc nãy đã mất cách đây ít hôm. Đúng như lời cậu ta
nói, nhà ở cuối xóm Đông, bố tên là Thắm. Khi nó mất, cũng được người ta chôn cất
ở khu nghĩa địa này.
Từng là
khu dân cư trù phú, giờ đây Đà Sơn như một vùng đất chết. Ban ngày người xe đi
lại thưa thớt, tối đến thì cửa đóng then cài. Đâu còn cái vẻ đông vui tấp nập
trước đây. Khu đồi Mưng vốn vắng vẻ, nay lại càng trở nên hoang vu hơn. Người
ta nhìn lên ngôi đền, thầm trách thần thổ địa đã không ra tay cứu độ dân làng.
Nhưng họ cũng chỉ nghĩ trong lòng vậy thôi, chứ nào đâu dám nói ra lời. Vì thần
linh bao giờ cũng có cách giải quyết riêng, người phàm trần đâu có thể hiểu và
biết trước hết được.
o0o
Gần bờ
sông Cả, có một người chuyên sống bằng nghề vớt vó. Cuộc sống tháng ngày cơ
cực, đúng như câu “Thân cò lặn lội bờ sông” vậy. Ông ở đây một mình, chẳng có
vợ con gì cả.
Tối
nọ ông lão lân la vớt vó ở khúc sông dưới chân đồi Mưng. Kể ra cũng liều lĩnh,
thời gian này thậm chí ban ngày người ta cũng không dám đến gần khu đồi nữa là.
Nhưng vì lúc này cá ở những đoạn sông khác đã ít đi, trong khi ở đây lại có
nhiều do xưa nay không ai đánh bắt. Vớt một lúc mà chẳng thấy được gì cả, nên
ông cứ liên tục chuyển chỗ. Bổng dưng trời nổi mây vần vũ, kèm theo những
tia chớp nhì nhoằng xanh lè. Ông lão nhìn lên trời và được chứng kiến một cảnh
tượng thật kỳ lạ. Trong ánh chớp sáng lòa, những đám mây có hình thù giống như
một đoàn quân đang diễu hành ra trận. Sấm ì ùng nổi lên tựa tiếng trống trận
trầm hùng. Cảnh tượng cứ như thế diễn ra trước mắt ông trong vòng vài phút.
Chợt
nghe một tiếng “bủm” vang lên dưới mặt nước, tưởng là có cá ông vội nhấc ngay vó
lên, nhưng lưới vẫn trống không. Thất vọng, ông lại chuyển vó đi chỗ khác. Lần
này lại có tiếng “bủm” vang lên, như ai đó cố tình ném vật gì đó xuống nước để
mà đuổi cá đi vậy. Mãi mê vớt vó, ông lão quên rằng mình đã di chuyển đến sát
dưới chân đồi Mưng.
Lần này thì
chờ thật lâu ông mới chậm rãi nhấc vó lên, cảm thấy lưới nặng chình chịch. Ông
lão khấp khởi mừng thầm, vì chắc mẫm sẽ có rất nhiều cá trong lưới. Vừa lúc đó
thì một tia chớp loé lên sáng lòa, soi rõ tất cả mọi thứ xung quanh. Ông vớt vó
hoảng hồn, vì trong lưới không phải cá mà là một cái đầu lâu người đang nằm
chòn lỏn. Thần hồn nát thần tính, ông vội vàng hắt trả cái đầu lâu kia xuống lòng
sông. Nhưng chẳng hiểu sao, chiếc đầu lâu kia cứ dính chặt vào lưới mà không
tài nào rớt ra ngoài được cả. Cực chẳng đã, ông đành phải kéo vó lên bờ để mà gỡ
nó ra. Lúc này lại thấy trong vó có vật gì đó lấp lánh, giống như một tấm thẻ
được sơn son thếp vàng. Cho là điềm lạ mà thần linh muốn mách bảo, ông không
ném trả cái đầu lâu kia xuống sông nữa, rồi cứ để vậy mà cuốn vó mang về.
Sáng hôm
sau, ông lão mang cái đầu lâu và tấm thẻ kia ra cho dân làng xem. Sau khi xem
xét kỹ, một cụ trong đám cao niên giải thích:
- Đây là
tấm thẻ bài Vua ban. Người này chắc chắn là một vị tướng quân!
Ai cũng
kinh ngạc mà chẳng thể hiểu nổi chuyện gì đang xẩy ra. Các cụ già khác thì bóp
trán suy nghĩ rất lung. Ông lão vớt vó nói thêm, vẻ mặt chưa hết lạ lùng:
- Dường
như có thần linh mách bảo, khiến tôi cứ chuyển chỗ mãi. Cho đến khi vớt được
cái đầu lâu và tấm thẻ này mới thôi.
Một cụ già
khác chậm rãi:
- Có thể
đây là di cốt của vị tướng quân trong truyền thuyết. Ngày xưa tôi được nghe các
cụ kể lại. Vào đời nhà Lê, vùng này có một vị tướng quân tham gia khởi nghĩa
chống giặc Minh. Vị tướng đó đã hy sinh, thi thể bị quân giặc ném xuống sông
Cả, rồi trôi dạt đến chỗ này chăng?...
Mọi
người đều cho đó là chủ ý của thần linh, bèn bàn nhau chọn một chỗ đất tốt để mà
chôn cất di hài. Các cụ cao niên lại rước linh vị tướng quân lên thờ tại đền
Mưng, để người dân quanh năm nhang khói.
Đà
Sơn từ đó hồi sinh, bệnh dịch cũng hoàn toàn biến mất như chưa từng hiện diện
nơi đây vậy. Chuyện Diêm Vương bắt lính cũng không còn xảy ra nữa. Ba thôn giờ
đây cũng nhộn nhịp trở lại, cảnh vật vì thế mà sầm uất như xưa.